Tôi cười khì khì:
- Xem tao đây nè. Muốn huấn luyệnchó thành công phải thưởng cho nó. Mày xem các tiết mục xiếc thú trên tivi thì biết. Dù là dạy chó, cá heo, cọp hay sư tử, bao giờ người dạy thú cũng cho nó ăn một thứ gìđó.
Tôi kêu con Tí sún kiếm một cái bánh, bẻ ra từng mẩu nhỏ.
Tôi dứ dứ mẩu bánh trước mặt con Hoàng tử bé, giọng nghiêm trang:
- Nghe đây, nhóc! Nếu mày nhặt chiếc dép đem về cho tao, tao sẽ thưởng cho mày mẩu bánh này.
Con Hoàng tử bé vẫn nhìn lom lom mẩu bánh trên tay tôi, nước dãi chảy ướt hai bên mép. Tôi trông thái độ của nó, ngờ rằng nó chưa nghe tôi nói gì, bèn cẩn thận và chậm rãi lặp lại một lần nữa, rồi cao giọng:
- Nhớ chưa?
Nghe tôi lớn tiếng, con Hoàng tử bé nhấc mắt lên khỏi mẩu bánh đểnhìn tôi với vẻ thăm dò, nhưng chỉmột giây sau, như không chịu được cơn đòi hỏi của dạ dày, ánh mắt nó lại rớt xuống mẩu bánh trên tay tôi, chân cẳng cựa quậy một cách bồn chồn.
Tôi nóng ruột liệng chiếc dép ra xa, quát:
- Mày nhặt chiếc dép đem về đây rồi sẽ được ăn.
Con Hoàng tử bé bỏng chẳng buồn nhúc nhích, ánh mắt nó vẫn xẹt qua xẹt lại giữa mẩu bánh và gương mặt tôi một cách khẩn trương.
Thấy Hoàng tử bé giả điếc, Hải cò và con Tí sún cười hích hích khiến tôi nhột nhạt như có ai cù.
Hải cò còn chọc quê tôi:
- Tưởng sao! Dạy cho con Hoàng tử bé không thèm nghe lời mình, tao cũng làm được.
Tôi liếc con Tí sún, đỏ mặt chống chế:
- Tao quên. Trước tiên cần phải làm gương cho nó.
- Làm gương là sao hả anh?
- Là làm mẫu cho nó xem trước. - Tôi gãi cằm, giảng giải - Bọn chó làchúa ngốc. Nếu không biểu diễn cho nó xem qua một lần con Hoàng tử bé sẽ chẳng hiểu mình muốn gì ở nó.
Tôi trút những mẩu bánh vụn lên chiếc ghế thấp, hai bàn tay phủi phủi đập đập một hồi, rồi bò xuống nền đất, dặn con Tí sún:
- Bây giờ tao đóng vai con Hoàng tử bé, mày liệng chiếc dép cho tao lượm về, sau đó mày đút bánh chotao ăn.
- Em hiểu rồi. Thế là con Hoàng tử bé sẽ bắt chước làm theo.
Con Tí sún cười khúc khích. Nó rút chiếc dép dưới chân liệng tuốt đằng góc nhà, ra lệnh:
- Nào, lượm chiếc dép đem lại đây cho chị!
Tôi bò lom khom trên hai đầu gối, tay chống xuống đất, lết lại chỗ chiếc dép.
Chiếc dép dơ hầy, lúc đầu tôi định nhặt bằng tay nhưng sợ làm như vậy con Hoàng tử bé sẽ không lãnh hội được trọn vẹn bài học, tôiliều nín thở cúi xuống ngoạm chiếc dép vô miệng.
Khi quay lại, tôi sửng sốt thấy con Hoàng tử bé không thèm quan tâm gì đến tôi. Nó đang chồm lên ghế, tỉnh bơ ngoạm hết mẩu bánh này đến mẩu bánh khác. Cứ như thể tôi là con chó thật và nó là tôi thật.
Tôi nhả chiếc dép hôi rình trong miệng ra, giận dữ:
- Hoàng tử bé! Mày học hành kiểu gì thế hả?
Con chó nghe tôi hét, hoảng hồn thả hai chân trước xuống khỏi ghế, ngoái cổ nhìn tôi.
Tôi chưa nguôi tức:
- Mày là chó chứ tao đâu phải là chó. Tại sao trong khi tao ngoạm dép thì mày ngoạm bánh hả?
Tôi hầm hầm chạy lại chiếc ghế, tính cốc cho nó một phát vào đầu nhưng con Hoàng tử bé đã nhanh chân lủi mất, kết thúc luôn buổi huấn luyện đầu tiên của tôi và Hải cò, tất nhiên là kết thúc theo cái cách chúng tôi không hề muốn.
Suốt một tuần lễ tiếp theo, công tác huấn luyện chó của chúng tôi không tiến triển thêm được bước nào. Trong khi đó, những lời ca than của các bậc phụ huynh ngày một nhiều.
Ba mẹ tôi và ba mẹ Hải cò bắt đầu nhìn hai đứa con bằng ánh mắt nghi ngờ khi thức ăn trong tủ chạn thường xuyên biến mất. Đến khi phát hiện chúng tôi đang nuôi một bầy chó hoang tại nhà con Tí sún thì sự nghi ngờ chuyển thành đe dọa.
Ba tôi hăm he:
- Mày mà còn đánh cắp thức ăn trong tủ lần nữa là tao chặt tay mày nghe, cu Mùi!
Ba thằng Hải cò chắc cũng hù dọa nó bằng những lời na ná như ba tôi nên những ngày sau mỗi khi qua thăm trang trại huấn luyện chó nó chỉ dám lận trong áo vài mẩu cơm cháy.
Lẽ ra người có đủ bực dọc nhất đểphê phán bọn tôi là ba con Tí sún. Không thể bảo việc con gái ông biến ngôi nhà sạch sẽ và yên tĩnh thành một trại nuôi chó chộn rộn và thoang thoảng múi cứt đái là một hành động đáng để người lớnhoan nghênh.
Thế nhưng ông không la rầy hay trách móc bọn tôi một lời và điều đó khiến tôi và Hải cò đồng ý một cách rưng rưng rằng nếu có một người cha tốt nhất trên đời thì đó chính là ba con Tí sún.
Quan niệm đó chỉ đổ vỡ khi chúngtôi phát giác bầy chó hoang trong trang trại cứ lần lượt biến mất từng con một.
Thoạt đầu chúng tôi nghĩ những con chó đó đã trốn nhà ra đi để thỏa mãn nỗi đam mê về một cuộcsống dọc đường gió bụi. Nhưng đến một ngày con Tí sún tình cờ bắt gặp ba nó đang chén chú chénanh với ba thằng Hải cò trong quán rượu lão Ba Đực, trước mặt là một mâm thịt được tô điểm bởi lá mơ và củ riềng thì bọn tôi đã đau xót hiểu ra những chú chó khốn khổ đó đã thực sự ra đi đến cõi nào trong trần gian đầy bụi bặm này.
Trang trại chó giải tán kể từ ngày đó, không kèn không trống. Giấc mơ kiếm tiền của những chú nhóccô nhóc tám tuổi cũng tan thành mây khói. Chỉ tiếc là con Tủn đã ra đi, nếu không bốn đứa tôi thế nào cũng lập một phiên tòa để kể tội ba con Tí sún. Ông thật là may.