Chương 5
Bước vào khỏi cổng thôn Đoài, đã thấy nhà ông Nghị Quế.
Nó là một đám bung xung nhọn như ngọn tháp, hùng dũng úp trên đoàn bịch vừa đồ sộ, dường như
phô nhà mình thóc để hàng bốn, năm mùa.
Nó là một lũ đốn rơm, đốn ra. lớn bằng trái núi, chen nhau đứng bên cạnh ngọn mít, ngọn sung, dường như khoe ông chủ cầy cấy đến mấy trăm mẫu.
Nó là những tòa mái ngói muốn bảo tồn quốc túy bằng những đấú vuông tròm trõm, những sôi tầu cong rướn và những con cá chép mảnh sứ há miệng nằm giáp tường hồi.
Nó là một ngôi dương cơ rộng chừng ba mẫu, quây quần trong bốn bức tường gạch cắm mảng chai, cảnh tượng phức tạp, giống như ngôi chợ đóng trong khu trại, họp đủ các vật sang, hèn, các kiểu cũ, mới.
Cái cơ nghiệp ấy tuy tự tổ tiên để lại, ông Nghị cũng có khai thác thêm nhiều.
Ông không đi buôn, không đi thầu, chỉ làm ông chủ ruộng kiếm ông chủ thả lãi.
Đụng đến của ông nhẹ nhất cũng là mười phân. Và vay từ một đồng trở lên, đều phải viết ruộng
hay nhà, hoặc phải gửi vật gì khác làm đồ bảo đảm. Qúa hạn thì mất. Dương cơ ông ở cũng nhờ ruộng nương ông cấy, hạc đồng, lọ sứ ông thờ, phần nhiều là của những người vay nợ hết hạn không trả, bị Ông chiếm lấy và bắt lấy.
Nhà ông đời đời phát phát về bên hào. Bước đường công danh của ông cũng bắt đầu từ chức Lý trưởng vượt qua những bậc Phó tổng, Chánh tổng rồi, cơm rượu, bò lợn và quan phủ, quan tỉnh hiệp sức vó nhau đưa ông lên ghế nghị viên.
Không như những kẻ mặt người dạ thú, mượn tiếng thay mặt dân để hót Chánh phủ mà xin xỏ việc này việc kia, ông ra nghị trường, chỉ cốt mua cái vị thứ tân thờí, lấy chỗ mỗi năm vài lần, ăn uống và... ngồi nằm với bọn tai mặt trong xứ.
Cái đức không thèm biết... chữ của ông hơn hẳn các bạn đồng viện, tuy những ông ấy chỉ xuất thân bằng nghề lái lợn hay cai phụ Vào viện ông cũng như hầu hết các ông nghị khác, không bàn và không cần nghe ai bàn. Nhưng, ông cũng chỉ ngáp vặt, chớ không ngủ gật bao giờ, vì sợ đôi giầy chí long để dưới chân ghế lỡ bị mất trộm trong khi ông phải co chân đặt lên mặt ghế cho hợp thói quen của ông.
Từ ngày giữ chức ông Nghị , danh tiếng của ông đã bay khắp tỉnh Trung sơn. Thế nhưng suốt năm chí tối, ông không phải thết một ông khách sáo, trừ ra hai ngày giỗ cha và giỗ mẹ.
Cố nhiên, ông phải là một người cơ chỉ, so kè từ một đồng xu trở đi. Vậy mà lắm khi ông lại rất hào. Nhất là những dịp tết ta, tết tây, không dịp nào ông quên không bắt chim ngói, gà mái theo những thúng gạo tám thơm vào cửa mấy ông to lớn.
Với ông, vợ chồng Đĩ Dậu không có họ hàng thân thích gì cả. Nhưng vì các hắn cầy thuê cấy mướn
cho ông đã nhiều, nên đều biết nhà, biết người.
Sau khi Cai lệ và người nhà Lý trưởng đã dẫn anh Dậu ra đình, chị Dậu theo lời chồng dặn, trao con bé con cho cái Tý, vớ chiếc nón rách đeo vào cổ taỵ Thằng dần khóc nhếch khóc nhác, rầm rĩ kêu đói. Giả điếc, chị cứ lủi thủi cắp nón ra đi.
Ánh nắng tháng năm rát như lửa chàm vào mặt. Hơi nước dưới đồng bốc lên, nóng như hơi trong chõ xôi. Những con cua chửa và những con rắn nước chịu không nổi sức nóng của nước trong ruộng, rủ nhau bò lên mặt đường và núp vào các khóm cỏ.
Đông xá với Đoài thôn vẫn là một xã, cách nhau độ ba cây xộ trong lúc nắng gắt, người ta coi đoạn đường ấy như con đường thiên lý trong bãi cát già. Nhưng, với chị Dậu nó không mùi gì, vì đời chị đã quen hàng ngày rạn mặt với thần nắng.
Nhờ sức che chơ của chiếc nón rách, chị chỉ bước rảo một thôi thì tới cổng nhà Nghị Quế. Mặt trời
đứng bóng. Trâu bò lũ lượt lôi thợ cầy ở ngoài đồng về. Thập thò ngoài cổng, chị nâng vạt áo nâu mốc lau những giọt mồ hôi nhễ nhoại trên đôi lông mày và mở to đôi mắt quáng nắng nhòm vào trong cổng.
Trên cái sân gạch Bát tràng mông mênh như bãi đá bóng, không điểm một vết bóng râm. Đàn chim bồ câu chổng mông mổ trên nong đỗ. Con gà mái ấp cục tác từ trên cửa chuồng nhảy xuống, ưỡn *** bón một bãi phân cho chậu lan. Mấy con lợn con theo mẹ nghễu nghện diễu chung quanh chậu nước vo gạo.
Không có người nào qua lại. Đánh bạo, chị Dậu xăm xăm tiến vào sân. Một đàn chó dữ như đàn hùm ở đâu nhất tề sồ ra. Chúng nó nhảy chồm lên tận mặt người lạ.
Hoảng quá, chị Dậu ngồi phịch xuống gạch, vừa vung cái nón khua đuổi những con ác thú, vừa kêu:
- Anh bếp có nhà không? Làm phúc đánh chó cho tôi với!
Trong nhà có tiếng thét ra the thé, nghe rõ là tiếng đàn bà:
- Làm gì mà nheo nhéo thế? Nhà ai không có chó? Làm sao đi không mang gậy? Thằng bếp còn bận việc khác, nó không phải hầu chúng bay!
Rồi lại im. Thì ra vợ chồng ông Nghị đương ăn cơm ở nhà khách. Nghe tiếng chị Dậu léo xéo, bà Nghị bực mình, quát đổng vài câu cho oai, chứ bà không thèm đứng dậy. Tính bà xưa nay vẫn thế, chẳng khi nào lại chịu hạ mình mà đi mắng chó, đuổi chó cho kẻ vay nợ hay người làm thuê.
Đàn chó cứ vây kín chung quanh chị Dậu như quân đèn cù. Hình như chúng nó muốn cố làm hết phận sự với chủ : con nào con ấy nhe răng lè lưỡi, chỉ chực vồ vào hai chân chị chàng đáng thương. Cái nón dùng làm khí giới đã bị đàn vật cắn rách tan tành.