Mới đây tờ The National Interest đăng một bài viết của tác giả Robert Farely về một số loại vũ khí của Nga có thể khiến NATO lo lắng nếu xảy ra chiến tranh.
Trước những căng thẳng ở Ukraine, lần đầu tiên Nga và NATO trở nên xung đột trực tiếp, điều này đòi hỏi sự phòng thủ về mặt quân sự của cả hai bên. Những vũ khí công nghệ từ cuối thời Chiến tranh Lạnh thực tế vẫn chưa được kiểm tra trong các cuộc chiến đấu lớn. Nếu ngoại giao không thành công và nguy cơ chiến tranh xảy ra cao thì NATO sẽ là thành viên lo lắng về nhiều nhất.
Dưới đây là 5 loại vũ khí của Nga mà NATO thực sự “kinh hãi”:
Tên lửa đạn đạo Iskander
Trong những năm cuối cùng của Chiến tranh Lạnh, Liên Xô đã phát triển được tên lửa đạn đạo tầm ngắn có khả năng tấn công với độ chính xác cực kì cao. Ngay cả Mỹ cũng thực sự lo ngại về loại tên lửa này vì cuộc chiến tranh vùng Vịnh trong lịch sử đã chứng minh sự khốc liệt của nó.
Hệ thống tên lửa chống tên lửa đạn đạo đó của NATO đã được cải thiện kể từ những năm 1980, tuy nhiên, tên lửa của Nga cũng không kém sức mở rộng. Hiện tại, Iskander-M có tầm bắn 400 km, có thể mang đầu đạn 700 kg, và xác suất lỗi trong khoảng 5 mét. Điều này mang đến nguy cơ chết người rất lớn tại các sân bay, điểm hậu cần, cơ sở hạ tầng và các trụ sở khác trong các cuộc xung đột. Đặc biệt là do tính chất bất thường và dễ bị phá hủy của biên giới giữa Nga và NATO, nên tên lửa Iskander của quân đội Nga có thể dễ dàng đe dọa các mục tiêu ở châu Âu.
Tên lửa Iskander có khả năng đặt lại mục tiêu di động, hơn thế nữa, nó cũng có một bộ tích hợp các kỹ thuật cơ động nhằm lảng tránh mục tiêu từ hệ thống phòng thủ tên lửa của đối phương.
Tên lửa Iskander có thể gây áp lực không chỉ lên hệ thống phòng thủ tên lửa của NATO, mà còn cho lực lượng không quân NATO. Các máy bay chiến đấu hoạt động tại các căn cứ tiền tuyến sẽ đối mặt với nguy cơ bị tấn công trực tiếp hay ít nhất cũng bị tê liệt. Nếu được triển khai tại Kaliningrad, các tên lửa Iskander có thể đe dọa nhiều mục tiêu chính trị và quân sự của NATO.
Đáp lại, NATO sẽ tìm cách phá hủy các hệ thống phóng tên lửa Iskander trong giai đoạn đầu của bất cứ cuộc xung đột nào. Mặc dù đã có kinh nghiệm tìm kiếm và phá hủy các hệ thống tên lửa di động nhưng NATO vẫn lo lắng về các cuộc tấn công bằng tên lửa đạn đạo tầm ngắn trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Sự thành công của các cuộc tấn công phá hủy các hệ thống phóng tên lửa Iskander phụ thuộc vào việc chiếm ưu thế trên không.
Gia đình Su-27 Flanker
Vũ khí này được thiết kế như một sự đáp trả của Liên Xô đối với tiêm kích F-15, chiếc Flanker đầu tiên bước vào hoạt động năm 1985, nhưng vẫn gặp những khó khăn trong việc sản xuất cho đến đầu những năm 1990. Các máy bay của gia đình Flanker là sự kết hợp kích thước, phạm vi, tốc độ, và khả năng cơ động mạnh mẽ. Dù Flanker không phải là một chiếc máy bay đẹp, nhưng sự xuất hiện của nó cực kì nguy hiểm
Không quân Nga tiếp tục vận hành vài trăm Flankers với nhiều biến thể khác nhau. Khung cơ bản của Flanker rất linh hoạt để nâng cấp, và đã trở thành nền tảng của sự lựa chọn cho những khách hàng sành điệu máy bay chiến đấu. Biến thể của Flanker bao gồm tiêm kích đa nhiệm Su-30, tiêm kích trên hạm Su-33, máy bay chiến đấu-ném bom Su-34, tiêm kích Su-35 và nhiều phiên bản của Trung Quốc.
Flanker chưa bao giờ đối đầu với các máy bay thế hệ thứ 4, máy bay thế hệ thứ 4.5, và tiêm kích thế hệ thứ năm F-22. Tuy nhiên, nó có thể làm hoang mang Eagles, Vipers, và Typhoon.
Không quân Nga đã phát triển chiến thuật cho việc sử dụng Flankers để chống lại máy bay chiến đấu tàng hình dựa trên việc khai thác lợi thế khả năng cơ động đáng chú ý của máy bay để tồn tại trong các cuộc tấn công tên lửa đầu tiên của đối phương. Hơn nữa, Flanker đủ nặng để ảnh hưởng mạnh và sau đó rút lui đến nơi an toàn trước khi máy bay chiến đấu của NATO có thể bắt kịp.
Hệ thống phòng không S-400
ách phương Tây tham gia chiến tranh phụ thuộc vào không quân. Lực lượng NATO đã không chiến đấu chống lại hệ thống phòng không hiện đại trong một thời gian rất dài. Trong thời gian đó, chi phí của máy bay ném bom của NATO đã tăng lên chóng mặt và ảnh hưởng nặng nề đến chính sách tài chính.
Một tên lửa S-400 có 3 loại tên lửa, mỗi loại có chức năng chặn các mục tiêu trên không ở khoảng cách khác nhau. Tên lửa có tầm bắn xa nhất có thể tấn công mục tiêu ở khoảng cách 400km, trong khi những tên lửa tầm ngắn hơn đánh chặn các mục tiêu bay linh họat và nhanh. S-400 cũng có thể đánh chặn các tên lửa đạn đạo, dù ít khả năng NATO sử dụng những vũ khí như vậy. Hệ thống cảm biến của S-400 thực sự hiệu quả, đặc biệt khi Nga có thể lập nhiều lớp phòng thủ S-400 tại những vùng xảy ra chiến sự. Triển khai S-400 tại Kaliningrad, hệ thống này có thể đe dọa hoạt động của không quân NATO ở châu Âu.
Kết hợp với các tên lửa Iskander và Flanker, S-400 sẽ làm cho công việc của lực lượng không quân NATO trong những ngày đầu rất khó khăn. Hệ thống cảm biến của Nga (mặt đất và không khí) vượt quá khả năng của bất kỳ đối thủ nào mà các nước NATO đã chiến đấu trong hai mươi lăm năm qua.
Ít nhất là trong những ngày đầu của cuộc chiến, S-400 và hệ thống liên quan của nó có thể vô hiệu hóa không quân NATO, phá hoại một trong những trụ cột trung tâm của phương Tây.
Tàu ngầm lớp Akula
Lực lượng NATO đã phát triển một hệ thống chống tàu ngầm rất có khả năng trong thời gian chiến tranh lạnh, bao gồm cả máy bay, tàu ngầm tấn công, thiết bị cảm biến, và tàu mặt nước. Sự sụp đổ của Liên Xô đã làm giảm rất nhiều các mối đe dọa tàu ngầm của Nga, với kết quả cuối cùng của một giảm của NATO chống tàu ngầm chiến tranh. Trong khi lực lượng NATO (và đặc biệt là lực lượng Hoa Kỳ) đã tiếp tục theo đuổi chống tàu ngầm, hiện tại họ không thể dựa trên những nguồn lực như trong thời kì Chiến tranh Lạnh.
Nhưng tàu ngầm của Nga vẫn còn. Trong những năm 1980 và 1990, Liên Xô và Nga xây dựng 15 tàu ngầm lớp Akula (Shcuka-B), 9 trong số đó vẫn còn phục vụ. Hải quân Nga sau đó đã nâng cấp các tàu ngầm lớp Akula với công nghệ tĩnh tối tân nhất. Có lẽ khả năng quan trọng nhất của tàu ngầm lớp Akula là có thể mang theo một lượng lớn vũ khí, bao gồm ngư lôi và tên lửa hành trình. Những tên lửa hành trình có thể tấn công các mục tiêu trên mặt đất và biển, đe dọa bờ biển của các nước thành viên NATO.
Các tàu ngầm tốt nhất của NATO vẫn có thể theo dõi và đánh bại tàu ngầm lớp Akulas, dù tàu ngầm có khả năng di chuyển với tốc độ cao. Nhưng ngay cả khi NATO có thể đánh chìm các tàu ngầm Nga, chúng vẫn có thể bị tàn phá trước khi bị nhấn chìm. Điều này có nghĩa là giết chết một tàu sân bay, hoặc đơn giản là gây ra rất thiệt hại lớn đến cơ sở hạ tầng quan trọng trên bờ.
Trong năm năm, công nghệ động cơ diesel-điện do Nga tiếp tục phát triển, lớp Lada có thể thay thế bằng lớp Akulas, ít nhất là trong bối cảnh xung đột nhỏ giữa NATO và Nga. Tuy nhiên, hiện tại, trang bị vũ khí tàng hình và lớn của tàu ngầm lớp Akulas tiếp tục đem đến một mối đe dọa không chỉ tới chiến hạm mà còn cơ sở hạ tầng trên bờ của NATO..
Lực lượng Spetsnaz
Trong Chiến tranh Lạnh, cả Mỹ và Liên Xô đã hình thành các lực lượng hoạt động đặc biệt chủ yếu về hỗ trợ các hoạt động thông thường. Tuy nhiên, ngay cả vào thời điểm đó, Liên Xô thực hiện nhiệm vụ này một cách rộng rãi hơn NATO. Spetsnaz (một thuật ngữ chung chỉ lực lượng đặc biệt khai thác theo một số chỉ định của tổ chức) được dự kiến sẽ thực hiện các hoạt động tấn công tập trung vào việc phá hoại thông tin liên lạc, và thậm chí là cả tàn phá chính trị.
Hiện tại lực lượng đặc biệt này của Nga là một vấn đề lớn đối với phương Tây ở mọi cấp độ leo thang. Trong trường hợp xung đột, chúng ta có thể mong đợi lực lượng đặc biệt của Nga hoạt động ở các giai đoạn khác nhau của cuộc xung đột. Nếu chiến tranh phát triển ở vùng biên giới tranh chấp giữa Nga và một trong những vùng Baltic, chúng ta chắc chắn sẽ thấy các nhà khai thác đặc biệt của Nga.