Trang 1, 2, 3, 4, 5 • Chuyển đến trang
ID Topic: 28196 • Có 9,021 lượt xem
Chương 6: Một tia sáng chợt loé.
Trong khi ba nhà thám tử đi thẩm tra lại một số chi tiết, tôi đi dạo một vòng khu vườn ở bên hông lâu đài. Được bao quanh bởi những hàng cây thuỳ dương uy nghi, khu vườn có một bãi cỏ rất đẹp, ở giữa là một chiếc đồng hồ mặt trời cổ kính. Sự yên tĩnh ở đây làm cho thần kinh tôi như giãn hẳn ra.
Đi về phía xa nhất của tòa lâu đài, những lùm cây mọc sát vào nhau làm thành một thứ hàng rào rất kín. Đằng sau hàng rào, có một chiếc ghế kê khuất hẳn, người đi từ phía lâu đài lại không thể nhìn thấy được. Đi gần đến đó, tôi chợt nghe tiếng nói của đàn ông, và một tiếng nói nhỏ của phụ nữ. Một lát sau khi đã đi vòng qua hàng rào, tôi trông thấy bà Douglas đang ngồi với ông Barker. Vẻ mặt của bà ta làm tôi phải kinh ngạc. Lúc nãy, bà tỏ ra nghiêm nghị và dè dặt bao nhiêu thì bây giờ, bà ta yêu đời bấy nhiêu; khuôn mặt vẫn còn rung lên trong sự thích thú vì câu nói vừa rồi của ông Barker. Ông ngồi nghiêng người ra phía trước, hai tay đan vào nhau, một nụ cười tươi làm rạng rỡ hẳn bộ mặt rắn rỏi. Khi trông thấy tôi, họ lấy lại nét mặt trang nghiêm, thì thầm với nhau câu gì đó, rồi Barker đứng dậy và tiến về phía tôi:
- Thưa ông, có phải tôi đang được hân hạnh nói chuyện với bác sỹ Watson không?
Tôi chào lại một cách lạnh nhạt.
- Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ đúng là ông, người mà ai ai cũng biết là bạn thân của ông Holmes. Bà Douglas mong muốn được thưa với ông một đôi điều.
Tôi cau mày và đi theo ông ta. Hình ảnh của người chết lại hiện ra trong đầu tôi. Chỉ vài giờ sau tấn thảm kịch thì vợ và bạn của kẻ xấu số đã cười đùa vui vẻ với nhau. Tôi chào bà Douglas một cách dè dặt.
- Tôi sợ rằng ông sẽ coi tôi là một người đàn bà không tốt.
- Đó không phải là việc của tôi. - Tôi nhún vai, nói.
- Có thể một ngày nào đấy, ông sẽ hiểu được rằng...
- Cũng không cần thiết là bác sỹ Watson phải hiểu. Đúng như ông ta nói, đây không phải là việc của ông. - Ông Barker nói.
- Đúng thế. Vì vậy tôi xin phép được tiếp tục đi dạo.
- "Xin hãy khoan, bác sỹ Watson!". Bà Douglas kêu lên. "Ông hiểu biết ông Holmes và những mối quan hệ của ông ta với cơ quan cảnh sát hơn ai hết. Nếu có một sự việc nào đó đem nói riêng với ông ta, thì ông ta có luôn luôn đem báo cáo lại với các thám tử của chính quyền không?"
- Xin hỏi ông Holmes làm việc riêng cho ông ta, hay ông ta làm việc cho cảnh sát? - Barker cũng nhấn mạnh thêm.
- Tôi cũng không biết mình có đủ thẩm quyền để bàn về vấn đề này không.
- Tôi van ông. Nếu ông mách cho chúng tôi điều này, thì ông sẽ giúp đỡ cho chúng tôi nhiều lắm.
Trong giọng nói của bà chứa đựng một cái gì nghe thành thật quá, đến nỗi lúc đó tôi quên hết cái chuyện vô tâm của bà, và chỉ nghĩ cách làm sao cho bà vui lòng:
- Ông Holmes là một nhà điều tra độc lập. Ông ấy tự làm chủ lấy mình và hoạt động theo sự suy nghĩ riêng của ông. Mặt khác, ông ấy cũng phải tỏ ra trung thực đối với những thám tử của nhà nước cùng làm việc trong một vụ án, và ông ấy sẽ không giấu diếm họ bất cứ một điều gì có thể giúp họ đưa các tội phạm ra trước công lý. Như vậy bà và ông nên hỏi thẳng ông Holmes.
Nói thế rồi, tôi nhấc mũ lên chào và bỏ đi, để mặc họ ngồi đằng sau lùm cây. Khi tôi đi khỏi hàng rào và quay lại thì thấy họ vẫn đang bàn cãi và trông theo tôi. Khi tôi kể lại cho Holmes nghe câu chuyện vừa rồi, Holmes trả lời: "Tôi không mong ước được nghe những lời tâm sự của họ".
Sau đó Holmes làm việc với hai đồng nghiệp suốt buổi chiều ở lâu đài và mãi 5 giờ mới về. Anh còn nhắc lại lần nữa:
- Này Watson, không có tâm sự gì cả đấy nhé. Những tâm sự này sẽ trở nên rất cộm nếu sau này có sự bắt bớ về tội đồng lõa.
- Sắp tiến đến bước đó rồi à?
- Khi nào tôi tiêu diệt xong cái quả trứng thứ tư này, tôi sẽ nói cho anh biết tình hình hiện nay. Tôi không nói rằng chúng ta đã giải được bài toán. Còn xa đấy. Nhưng khi nào chúng ta tìm thấy quả tạ còn thiếu kia thì.....
- Quả tạ à?
- Tất cả vụ án này quay chung quanh cái quả tạ vắng mặt kia. Một quả tạ duy nhất. Anh hãy tưởng tượng có một nhà lực sĩ nào chỉ tập với một quả tạ thôi, trẹo cột sống.
Anh ta nhai nhồm nhoàm cái bánh ngọt, hai mắt long lanh tinh nghịch: trông anh ăn ngon như thế cũng đủ hiểu là công việc tiến hành tốt rồi ; ăn xong, anh đến ngồi bên góc chiếc lò sưởi của quán trọ, bắt đầu nói:
- Nói dối. Nói dối to bằng cái đình. Tất cả câu chuyện của Barker là nói dối. Nhưng câu chuỵên của Barker lại được bà Douglas công nhận. Vậy thì bà Douglas cũng nói dối. Bởi vậy, giờ đây chúng ta đang đứng trước bài toán này: Tại sao họ lại nói dối, và cái sự thật họ đã cố gắng che giấu là gì? Theo họ kể lại thì tên sát nhân chỉ có một khoảng thời gian chưa đầy một phút để tháo chiếc nhẫn thứ nhất ra, lấy chiếc nhẫn cưới, rồi đeo chiếc nhẫn thứ nhất vào tay nạn nhân. Chắc chắn là không bao giờ nó làm như vậy đâu. Sau đó nó lại còn nhớ để một mẩu bìa cứng bên cạnh xác chết nữa, không thể làm kịp.
(Nokia x2-02)
Cậu có nói rằng: chiếc nhẫn cưới đã
được rút ra khỏi tay Douglas trước khi ông ta chết. Sự kiện cây nến cháy ít như vậy chứng tỏ cuộc đối thoại chắc phải là ngắn ngủi. Lại nữa một người can đảm, liều lĩnh như Douglas liệu có tháo ngay chiếc nhẫn cưới của mình đưa cho tên sát nhân khi tên này mới đòi lấy không? Không, tên sát nhân đã ở lại một mình với xác chết một thời gian nữa sau khi cây nến được thắp lên. Nhưng phát đạn là nguyên nhân đã gây ra cái chết. Vậy thì phát đạn này được bắn sớm hơn là người ta khai báo với chúng ta, vết máu ở trên thành cửa sổ, chính là do Barker đã cố tình tạo nên ở đó để đánh lừa cảnh sát. Hôm ấy, gia nhân trong lâu đài còn đi lại đến 10 giờ rưỡi đêm, vậy thì vụ án không thể xảy ra trước giờ đó được. Đến 11 giờ kém 15 thì họ đi ngủ, chỉ trừ có Ames lúc đó đang ở trong bếp.
Chiều nay, sau khi anh đi về rồi, tôi có tiến hành một vài thử nghiệm: Khi tôi đóng kín các cửa lại, MacDonald gây ra nhiều tiếng động trong căn phòng có án mạng ; ở dưới bếp không ai nghe thấy cả. Nhưng đứng ở căn phòng riêng của bà hầu phòng thì lại khác: ở trong buồng của bà này, tôi vẫn nghe thoang thoảng tiếng người nói thật to ở nhà trên. Tiếng nổ của một phát súng chắc không lớn lắm, nhưng trong cái im lặng của ban đêm, thì ở căn buồng của bà Allen cũng có thể nghe thấy được. Bà ấy có nói là hơi nặng tai nhưng mặc dầu vậy bà ấy lại khai là có nghe thấy tiếng một cánh cửa đập nửa giờ trước khi có báo động. Nửa giờ trước khi báo động, nghĩa là vào lúc 11 giờ kém 15, chắc chắn là cái tiếng mà bà ta cho là tiếng đập cửa ấy, chính là tiếng súng và thời điểm 11 giờ kém 15 ấy chính là giờ xảy ra vụ án. Giả sử ông Barker và bà Douglas không giết người thì họ đã làm gì trong khoảng thời gian từ 11 giờ kém 15 (Là lúc họ nghe thấy tiếng súng và chạy từ trên lầu xuống) tới 11 giờ 15 (lúc họ giật chuông để báo động với gia nhân). Tại sao họ lại không báo động ngay? Khi trả lời được câu này, thì đã tiến được một bước lớn.
- Tôi lại tin chắc là có một sự đồng lõa giữa hai con người này. Một người đàn bà phải tàn nhẫn đến thế nào thì mới có thể cười cợt như vậy khi chồng mới chết có vài tiếng đồng hồ.
- Đúng thế. Ta ít thấy có người phụ nữ yêu chồng mà lại chỉ mới nghe một lời khuyên đơn giản như thế đã không vào nhìn xác của chồng. Đó, chỗ này đạo diễn có phần "yếu" quá, vì bất luận một nhà điều tra nào dù ngu đến đâu cũng phải chú ý đến việc ở đây thiếu hẳn những lời than khóc của phụ nữ.
- Vậy thì Barker và bà Douglas là những thủ phạm của vụ án này phải không?
Holmes rút cái tẩu thuốc ở mồm ra, dứ dứ vào tôi thở dài:
- Nếu anh muốn nói rằng bà Douglas và Barker biết sự thật về vụ án mạng nhưng họ cố che giấu thì tôi đồng ý. Nhưng còn câu kết luận của anh, thì tôi thấy chưa đủ chứng minh. Phải chăng họ đã yêu nhau và đã quyết định phải ra tay? Không. Những người trong làng đã nói là tuyệt đối không có thế. Tất cả mọi cái đều chứng minh rằng gia đình Douglas rất thuận hòa êm ấm.
Tôi nhanh chóng nhớ lại nét mặt tươi cười mà tôi đã bắt gặp trong khu vườn, nên cãi lại:
- Về vấn đề này thì anh đã sai rồi.
- Ừ thì ít nhất họ cũng cho ta cái cảm giác là họ thuận hòa với nhau. Như thế phải giả thiết rằng cái đôi thủ phạm kia gian giảo, đến mức vừa giết chồng, vừa đánh lừa được mọi người. Và trên đầu người bị giết đang treo lơ lửng một mối nguy hiểm nào đó ...
- ồ ... Giả thiết về mối nguy hiểm này chỉ do một mình họ gợi ra mà thôi.
Holmes có vẻ suy nghĩ:
- Theo anh thì chẳng có mối nguy hiểm nào đe dọa Douglas, chẳng có thung lũng khủng khiếp. Họ bịa ra những chuyện đó để giải thích vụ án mạng. Rồi họ lại nghĩ ra việc bố trí một cái xe đạp giấu trong bụi cây để chứng tỏ có sự hiện diện của một kẻ lạ mặt. Cả vết máu trên thành cửa sổ cũng nằm trong ý nghĩ đó. Rồi lại cả mẩu bìa cứng, đáng lẽ ra có thể chuẩn bị ngay ở trong lâu đài. Tất cả những cái ấy đều khớp với giả thiết của anh. Nhưng ác cái lại có những góc cạnh khác cứ lòi ra. Tại sao có súng cưa nòng? Tại sao lại là súng Mỹ? Tại sao họ tin chắc là không ai nghe thấy tiếng súng? Anh có thể giải thích được cho tôi nghe không, Watson?
- Xin chịu.
- Nếu một người đàn bà cùng nhân tình âm mưu giết chồng, thì liệu họ có dại dột đến mức tháo chiếc nhẫn cưới ở tay người chết ra để "lạy ông tôi ở bụi này" không? Điều này liệu có thế xảy ra được không?
- Không?
- Lại còn thế này nữa: Nếu chính họ là những ngưòi giấu chiếc xe đạp trong bụi cây, thì tất họ cũng đủ tinh khôn để nghĩ rằng bất cứ một viên thám tử nào cũng hiểu đây là một động tác giả, vì chiếc xe đạp chính là cái mà một người chạy trốn cần đến trước nhất để thoát.
- Chịu thôi.
- Vậy chúng ta hãy giả thiết tay Douglas này có một bí mật đáng xấu hổ trong đời. Bí mật này đưa đến chỗ hắn bị ám sát bởi một người đi báo thù. Người này, vì một động cơ nào đó đã tháo chiếc nhẫn cưới của hắn. Ta cũng có thể giả thiết rằng mối thù này có từ thời Douglas lấy người vợ trước kia, thì mới giải thích được việc tháo nhẫn cưới.
(Nokia x2-02)
Trước khi hung thủ trốn thoát, thì Barker và bà Douglas ập vào phòng. Tên sát nhân nói với họ rằng nếu họ bị bắt, thì bí mật ghê gớm của Douglas sẽ bị đưa ra ánh sáng. Hai người buộc lòng phải để cho nó chạy trốn. Có lẽ họ đã hạ chiếc cầu xuống để cho nó chạy đi rồi lại kéo cầu lên. Tên sát nhân biết rằng đi bộ tốt hơn là dùng chiếc xe đạp, nên đã để lại chiếc xe đạp ở chỗ mà người ta khó phát hiện ra trước khi nó đã đi xa. Đến đây thì chúng ta vẫn còn ở trong phạm vi những điều có thể được, đúng không?
Tôi trả lời một cách không tin tưởng lắm:
- Tất nhiên là có thể được.
- Tiếp tục nhé, sau khi đã để cho tên sát nhân trốn thoát, hai người kia biết mình đã lâm nguy, bởi vì làm sao chứng minh được rằng họ không giết Douglas hay không phải là đồng lõa của tên sát nhân. Thế rồi họ chọn một quyết định: Barker lấy chiếc giày vải, thấm máu in vết lên thành cửa sổ để gợi ý là tên sát nhân đã trốn ra theo con đường đó. Chắc chắn họ đã để chậm nửa giờ sau khi sự việc xảy ra, rồi mới báo động.
- Làm cách nào để chứng minh được những điều đó.
- Một mình tôi ở lại đây một đêm thì sẽ có kết quả.
- Ở một mình suốt một đêm trong căn phòng xảy ra án mạng?
- Tôi đã thu xếp với bạn Ames rồi. Tôi sẽ tới ngồi ở đó, và không khí trong phòng có lẽ sẽ gợi cho tôi nhiều ý nghĩ hay. à, mà này, anh có mang theo cái ô to gộc của anh đi đấy chứ.
- Có, kia kìa.
- Thế thì xin cho tôi mượn.
- Được thôi. Nhưng ... nó có phải là một vũ khí đâu.
- Không có gì nguy hiểm đâu. Bây giờ tôi chỉ còn chờ các vị đồng nghiệp chúng ta ở Tunbridge Wells về, họ lên đấy để xác minh chủ nhân của chiếc xe đạp đó.
Trời tối mịt mới thấy ông thanh tra MacDonald và White Mason trở về. Họ vui mừng ra mặt, vì họ đã tiến lên một bước khá dài.
- Chúng tôi đã xác minh được chiếc xe đạp và đã có được hình dạng của người chủ nó. - MacDonald nói.
- Tôi xin hết lòng ca ngợi nhị vị - Holmes nói.
- Cậu Ames khai là bữa trước hôm xảy ra án mạng, ông Douglas từ Tunbridge Wells về, có tỏ ra cáu kỉnh khác thường. Vậy chắc là khi ở đó, ông được biết có một mối nguy hiểm đang đe dọa mình. Như thế nếu có ai đến đây bằng xe đạp, thì người đó xuất phát từ Tunbridge Wells. Bọn tôi mang cái xe đạp đến đó cho các khách sạn xem. Chủ quán trọ "Eagle Commercial" nhận ra ngay là chiếc xe của một người Mỹ tên là Hargrave đến thuê buồng ở đó đã hai ngày rồi. Tất cả hành lý chỉ có chiếc xe đạp với một cái va ly nhỏ. Anh ta khai trong sổ đăng ký là từ London đến, nhưng không nói rõ địa chỉ.
Holmes kêu lên vui sướng:
- Hô, hô. Hai ông đã làm được một công việc hết sức tốt, trong khi tôi và ông bạn Watson cứ ngồi đây mà xây dựng hết thuyết nọ đến thuyết kia. Đấy, óc thực tiễn có lợi là như thế đó, ông MacDonald ạ.
Ông thanh tra nở mày nở mặt, vui vẻ nói:
- Vâng, ông nói đúng đó.
Tôi nói với Holmes:
- Nhưng sự phát hiện này cũng khớp với giả thiết của cậu kia mà.
- Khớp mà không khớp. Ông MacDonald, ông có tìm thấy cái gì để xác minh được người ấy không?
- Không có bất cứ một thứ giấy tờ, thư từ, giấu vết gì trên quần áo. Trên bàn của hắn, có một tấm bản đồ của vùng này. Sáng hôm qua, sau khi ăn điểm tâm xong, hắn ở khách sạn ra, lên xe đạp đi, thế là biến luôn. Không ai thấy hắn nữa.
Mason ngắt ngang:
- Đó. Chính chỗ này làm cho tôi thắc mắc đây ông Holmes ạ. Nếu tên này muốn làm cho người ta không chú ý đến hắn, thì hắn nên trở lại khách sạn và ở đấy như một người du lịch bình thường. Hắn thừa biết người chủ khách sạn phải báo cáo với cảnh sát về sự mất tích của hắn, và tất nhiên là người ta sẽ ráp sự mất tích của hắn với vụ án mạng.
- Tất nhiên rồi, nhưng cho đến bây giờ nó vẫn chưa bị bắt. Mà các ông có nắm được hình dạng của nó không?
MacDonald mở cuốn sổ tay ra:
- Tôi đã ghi được những gì người ta nói với chúng tôi đây. Hắn cao khoảng 5 feet 9, cỡ 50 tuổi, tóc hơi hoa râm, râu cũng hoa râm, mũi két; về cái bộ mặt của hắn, mọi người đều mô tả là dữ dằn và đáng ngại.
- Trời đất. Trừ cái điểm cuối cùng ra, thì phải nói là giống hệt một bức chân dung của chính Douglas. Tay này cũng khoảng hơn 50 tuổi, tóc cũng muối tiêu, râu cũng hoa râm, và cũng cao cỡ đó. Các ông có chi tiết nào khác nữa không?
- Hắn mặc bộ quần áo mầu xám rộng thùng thình, một cái áo khoác màu vàng, ngắn và đội một cái mũ mềm.
- Còn về khẩu súng?
- Một khẩu súng dài có 2 feet có thể xếp được hoàn toàn trong chiếc va ly, và giấu dưới áo khoác.
- Thế bây giờ các ông định ráp những tin tức mới này vào khung cảnh của vụ án như thế nào?
MacDonald trả lời:
- Hiện nay, chúng ta chỉ mới biết có một người Mỹ, tên là Hargrave, ngày hôm kia đến Tunbridge Wells với một chiếc xe đạp và một cái valy. Trong valy có một khẩu súng săn cưa nòng. Sáng hôm qua, hắn đi xe đạp tới làng Birslstone và đã giấu khẩu súng dưới áo khoác. Theo chỗ chúng ta biết, thì không ai trông thấy hắn đến đây. Nhưng hắn cũng không cần đi qua làng vẫn có thể đến được trước cổng sắt của lâu đài. Con đường hắn đi cũng có nhiều người cỡi xe đạp như hắn.
(Nokia x2-02)
Tôi đoán rằng, hắn đã giấu ngay chiếc xe đạp trong những bụi cây trúc đào. Bản thân hắn cũng nấp ở đó để rình ông Douglas ở lâu đài. ở trong nhà thì khẩu súng săn đúng là bất lợi, nhưng ở ngoài trời thì nó có hai ưu điểm rõ ràng: trước hết nó giết người được một cách chắc chắn, sau nữa sẽ không có ai để ý đến tiếng nổ, trong một vùng nông thôn có nhiều người đi săn.
- Rất rõ ràng. - Holmes nói.
- Nhưng ông Douglas lại không ra khỏi lâu đài. Vậy thì tên sát nhân có thể làm gì được bây giờ? Hắn bỏ chiếc xe đạp ở đó và chờ sẩm tối mới lần mò vào gần lâu đài. Hắn thấy cây cầu rút vẫn còn hạ xuống mà xung quanh thì vắng vẻ cả. Hắn liều đi vào, và chắc là có chuẩn bị trước một lý do gì đó để xin lỗi nếu có gặp người ở trong nhà. Hắn không gặp ai cả. Hắn lẻn vào cái phòng gần nhất và trốn sau bức rèm cửa. ở đó, hắn trông thấy cây cầu được rút lên, và hắn hiểu rằng sẽ phải lội qua hào để trốn ra. Hắn đợi đến 11 giờ 15. Đến giờ này, ông Douglas bước vào buồng. Hắn giết ông ta và chạy trốn. Hắn biết rằng chiếc xe đạp của hắn có thể bị những người trong khách sạn nhận ra được, vì thế hắn đã bỏ nó lại, và dùng một phương tiện giao thông khác để trở về London.
- Rất rõ ràng. Nhưng tôi lại tin là án mạng đã xảy ra nửa giờ sớm hơn là người ta đã nói với chúng ta. Rằng bà Douglas và ông Barker đã cùng nhau che giấu một cái gì đó, đã giúp đỡ cho tên sát nhân trốn thoát, đã tạo ra những dấu vết để làm cho người ta tưởng là nó đã trốn qua đường cửa sổ, và có nhiều khả năng là họ đã hạ cây cầu rút xuống cho nó trốn.
Hai nhà thám tử của nhà nước gật gù. ông thanh tra MacDonald nói:
- Nếu cách nhìn của ông mà đúng, thì chúng ta chỉ chuyển từ một bí mật này sang một bí mật khác thôi.
White Mason bổ sung:
- Nhưng về một số mặt nào đó thì lại vấp phải một bí mật gay go hơn nữa. Bà Douglas chưa hề sang Mỹ. Vậy thì bà có thể liên hệ như thế nào với một tên sát nhân người Mỹ?
- Tôi công nhận là có rất nhiều khó khăn. Tôi dự tính tối nay sẽ tiến hành cuộc điều tra theo cách riêng của tôi.
- Chúng tôi có thể giúp ông được không, ông Holmes?
- Không. Chỉ cần bóng tối và chiếc ô của bác sỹ Watson thôi, ông Ames sẽ giúp tôi một vài điều.
Khi Holmess trở về phòng trọ, thì đêm đã khuya lắm rồi. Lúc Holmes mở cửa vào phòng, tôi hỏi nhỏ:
- Thế nào Holmes, có thấy gì không?
Holmes cầm một ngọn nến, cúi xuống thì thầm vào tai tôi:
- Anh có sợ khi phải ngủ chung phòng với một thằng điên không?
- Không.
- Ồ, thế thì hạnh phúc cho anh đó.
Thế rồi không nói thêm một lời nào nữa, anh ta chui vào chăn.
(Nokia x2-02)
Chương 7: Giải đáp.
Sáng hôm sau, chúng tôi đi gặp ông thanh tra MacDonald và thám tử Mason. Họ đang họp trong cơ quan cảnh sát địa phương. Đằng trước mặt họ, trên bàn có cả xấp những thư và điện tín đã đuợc xếp thứ tự cẩn thận.
Holmes vui vẻ hỏi:
- Vẫn trên đuờng đi tìm nhà cua rơ xe đạp chứ? Tin tức cuối cùng như thế nào?
MacDonald buồn rầu chỉ tập thư tín, nói:
- Người ta đã bắt hai chục người mặc áo khoác màu vàng ở khắp nơi.
Holmes kêu lên với giọng chân thành:
- Sáng nay, tôi đến đây để khuyên các bạn một lời. Lời khuyên này có thể tóm tắt trong ba chữ: "Bỏ vụ án".
MacDonald và Mason vô cùng kinh ngạc. Mãi rồi ông thanh tra mới kêu lên đuợc:
- Ông thấy vụ án này tuyệt vọng đến thế kia à?
- Theo cách điều tra của các ông, thì sẽ không đi đến đích. Nhung chúng ta không đuợc phép tuyệt vọng trong khi đi tìm chân lý.
- Thế cái tên đi xe đạp ấy thì sao? Nó có phải là một vật tưởng tượng ra đâu. Nhất định nó phải ở một nơi nào chứ?
- Vâng, nó phải ở một nới nào đó, và chúng ta sẽ tìm thấy nó, trong một đuờng bán kính hẹp hơn nhiều.
Ông thanh tra phản đối một cách bực tức rõ ràng:
- Ông giấu chúng tôi một cái gì đó. Ông Holmes?
- Ông MacDonald. Tôi chỉ giấu ông - trong một thời gian ngắn thôi - những gì tôi chưa thể cho ông biết đuợc. Tôi muốn thẩm tra lại một số chi tiết. Việc thẩm tra xong, lúc đó tôi sẽ trở về London sau khi đã thông báo với các ông tất cả kết quả tôi đã thu lượm đuọc.
- Chiều hôm qua ông đồng ý trên những nét lớn với những kết quả của chúng tôi. Nhưng hôm nay thì hình như có chuyện gì xảy ra đã làm ông thay đổi hoàn toàn.
- Vâng. Tối hôm qua tôi đã đến ở lâu đài trong mấy tiếng đồng hồ.
- Thế thì sao?
- Tôi có đọc một tài liệu ngắn về tòa lâu đài này. Tôi mua nó mấy xu ở quán bán thuốc lá trong làng.
Holmes rút ở túi áo ngoài ra một tờ giấy nhỏ, có vẽ một bức hình thô sơ của tòa lâu đài cu.
-... Những loại tài liệu như thế này mang đến nhiều hứng thú cho cuộc điều tra. Tôi xin phép đọc ông nghe một đoạn sau này:
“Đuợc dựng lên trong năm thứ 5 của triều vua James I trên vị trí của một lâu đài cu cổ xưa hơn, lâu đài Birlstone là một trong những hình ảnh rất đẹp còn nguyên vẹn của loại phủ thất có hầm vào thời các vua James...
- Ông định chế nhạo chúng tôi, ông Holmes?
- Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông nổi cáu đấy. Thôi tôi không đọc nữa. Nhưng nếu tài liệu này có nói đến việc một ông đại tá của Quốc Hội đã chiếm lấy tòa lâu đài này vào năm 1644; việc nhà vua Charles có trốn tránh ở đây vài ngày trong thời kỳ nội chiến; và nhà vua Georges Đệ Nhị cung đã có ở đây... thì chắc ông sẽ đồng ý với tôi là những việc này có thể gợi cho chúng ta nhiều ý nghi liên hệ lắm.
Nhà thám tử sốt sắng trả lời ngay:
- Tôi đồng ý với ông về điều đó, ông sắp đến đích, nhung ông quá kín đáo.
- Tối hôm qua, tôi có tới lâu đài. Tôi không gặp ông Barker, cung không gặp bà Douglas, nhưng tôi được biết rằng bà chủ lâu đài đã dùng bữa tối một cách rất ngon miệng. Tôi chỉ cần gặp anh Ames thôi, và anh ta đồng ý cho tôi ở lại một mình trong căn buồng xảy ra án mạng, và Ames cam đoan sẽ giữ kín về việc này.
- Thế nào? ở lại bên cạnh cái ...
- Không! Mọi vật đã đuợc dọn dẹp cả rồi. Vì vậy tôi đã sống một vài giờ rất có ích ở đó.
- Có ích thế nào thưa ông?
- Tôi đi tìm quả tạ còn thiếu. Và tôi sắp thấy nó.
- Ở đâu vậy?
- Xin để tôi tiếp tục tìm kiếm.
Ông thanh tra càu nhàu:
- Ông muốn thế nào, chúng tôi cung phải theo thế thôi. Nhưng bắt phải bỏ vụ án này đi, thì ... mà, tại sao lại phải bỏ?
- Bởi mục đích cuộc điều tra của ông là...
- Chúng tôi điều tra về vụ ám sát ông Douglas.
- Vâng. Nhưng các ông đừng mất công đi tìm cái tên đi xe đạp. Chuyện đó không đi đến đâu cả.
- Chúng tôi phải làm gì?
- Tôi xin nói cặn kẽ, nếu các ông muốn.
- Tôi sẽ làm theo lời khuyên của ông.
- Thế còn ông, ông White Mason?
Nhà thám tử địa phương có phần hơi ngơ ngác, phương pháp làm việc của Holmes hoàn toàn mới lạ đối với ông ta.
- Vâng, ông thanh tra đã đồng ý, thì tôi cung đồng ý.
- Hoan hô. Vậy hai ông hãy tổ chức một cuộc đi dạo chơi cho thật thoải mái. Người ta có nói với tôi rằng đứng từ trên cao nhìn xuống sẽ thấy phong cảnh của cánh rừng Weald tuyệt đẹp.
MacDonald nổi cáu, đứng phắt lên:
- Ông Holmes, ông đã đi quá giới hạn của sự bông đùa rồi đó.
Holmes vỗ nhè nhẹ vào vai ông ta:
- Thôi đuợc! Thế thì xin tùy các ông, nhưng nhất định phải đến tìm tôi ở đây, truớc buổi tối nay.
- Thật là quá lắm.
- Bây giờ, trước khi tôi đi, tôi nhờ ông viết mấy chữ cho ông Barker.
- Viết gì kia?
- Xin mời ông viết "Thưa ông, chúng tôi nghĩ rằng, chúng tôi có nhiệm vụ phải tát cạn con đuờng hào để hy vọng có thể tìm thấy...”
Ông thanh tra phản đối ngay:
- Tôi đã đích thân tìm xem có cách gì tát cạn đuờng hào hay không, nhưng thấy không thể đuợc.
- Xin ông cứ viết.
- Thôi đuợc. Ông đọc tiếp đi.
- “... một yếu tố mới có liên quan đến cuộc điều tra. Chúng tôi đã sắp sẵn cả. Sáng sớm mai, công nhân sẽ bắt tay vào việc đổi hướng dòng nước...”
- Tôi nhắc lại với ông rằng không thể đuợc mà.
(Nokia x2-02)
- “... Chúng tôi thấy nên báo để ông biết trước". Vào khoảng độ 4 giờ chiều, ông cho người đua thu tận tay ông Barker. Đó cung là giờ chúng ta sẽ gặp lại nhau ở đây. Trong khi chờ đợi, ai muốn giải trí thế nào thì xin tùy thích, vì cuộc điều tra đang dẫm chân tại chỗ.
Buổi tối, chúng tôi gặp lại nhau như đã quy định. Vẻ mặt Holmes rất nghiêm trang. Tôi thì tò mò, còn hai vị thám tử thì nghi ngờ ra mặt.
Holmes bắt đầu một cách trịnh trọng:
- Thưa các ông, bây giờ chúng ta phải tới đuợc chỗ đứng quan sát trước khi trời tối hẳn. Chúng ta nên đi ngay bây giờ.
Chúng tôi đi dọc theo bờ ngoài khu vườn của lâu đài và đến trước một lỗ hổng trong hàng rào. Chúng tôi chui qua lỗ đó. Holmes dẫn chúng tôi đến đằng sau một bụi cây nhìn chếch sang phía cổng chính và cây cầu, lúc đó còn chưa rút lên. Holmes ngồi xổm sau bụi cây. Chúng tôi cung làm theo anh ta.
MacDonald hỏi bằng một giọng bực tức:
- Làm gì bây giờ đây?
- Hãy kiên nhẫn và đừng gây ra tiếng động.
- Ông nên thành thật với chúng tôi hơn.
Holmes bật cười:
- Ông MacDonald, tôi xin ông kiên nhẫn một chút, rồi tất cả sẽ sáng tỏ thôi.
Đêm xuống dìm cả tòa lâu đài vào bóng tối. Một màn sương lạnh từ đuờng hào Baynes lên làm chúng tôi rét thấu xương. Trên khung cửa chính chỉ có một ngọn nến đuợc thắp, và trong căn buồng có án mạng cung có một ngọn đèn khác đang cháy, còn tất cả chung quanh tối đen nhu mực.
Đột nhiên ông thanh tra lại cất tiếng hỏi:
- Phải chờ bao lâu nữa, và chờ cái gì?
- Tôi không biết phải chờ bao lâu. Nếu những tên tội phạm hoạt động đúng giờ giấc như những chuyến tàu chạy, thì đỡ cho chúng ta biết bao. Còn việc chúng ta chờ... à mà kìa, việc chúng ta chờ kia kìa.
Trong khi Holmes nói, thì ánh sáng trong căn buồng đã bị che khuất đi bởi một người đi đi lại lại trước nó. Sau đó cửa sổ mở toang và bóng một người đàn ông nhô ra quan sát bóng tối. Hắn nhìn ngược nhìn xuôi trong mấy phút. Rồi cúi xuống và trong đêm khuya yên tinh, chúng tôi nghe thấy tiếng nước vỗ nhè nhẹ. Tôi có cảm giác là người đó đang dìm một vật gì cầm trong tay xuống đuờng hào. Sau cùng anh ta kéo một vật gì lên: Một vật gì đó to, tròn, khi đuợc đem qua cửa sổ, nó che khuất cả ánh sáng ngọn đèn.
Holmes kêu lên:
- Nào, bây giờ. Ta vào đi.
Chúng tôi chồm lên, líu ríu chạy theo Holmes. Holmes đã chạy tới chiếc cầu rút và giật chuông ầm i. ở phía bên kia cửa các chốt đuợc tháo ra. Ames hiện ra trong khung cửa, vẻ mặt ngơ ngác, Holmes chẳng nói chẳng rằng, gạt anh ta sang bên, rồi cùng ba chúng tôi xông vào căn buồng.
Ngọn đèn dầu hỏa để trên bàn là nguồn ánh sáng mà chúng tôi trông thấy từ bên ngoài. Lúc này, nó đang ở trong tay của Barker, và ông ta đang huớng về phía chúng tôi. Nó chiếu lên một khuôn mặt cả quyết, cương nghị, một cặp mắt đe dọa thách thức.
- Thế này là thế nào? Các ông tìm gì?
Holmes nhìn chung quanh, rồi nhảy sổ tới một cái gói ướt sung có buộc dây để ở trên bàn.
- Chúng tôi tìm cái này đây. Cái gói có một quả tạ mà ông vừa kéo ở dưới đáy hào lên.
Barker kinh ngạc:
- Vì sao ông lại biết có quả tạ trong ấy?
- Bởi vì chính tôi đã để quả tạ ấy vào đó.
- Ông đã để quả tạ vào đó?
Holmes chữa lại:
- Ông còn nhớ chứ, ông thanh tra, việc thiếu một quả tạ ngay từ đầu đã đập vào trí tôi. Khi nước thì gần kề ngay bên, mà lại thấy thiếu một vật nặng, thì có lẽ một vật gì đó đã đuợc nhận chìm xuống nước. Với sự giúp đỡ của anh Ames, tôi đã vào đuợc căn phòng này, và với chiếc ô của bác sỹ Watson, tôi đã vớt vật này lên và xem xét nó. Nhưng điều cơ bản là phải chứng minh đuợc ai đã dìm cái gói đó. Bức thơ của ông MacDonald báo trước ngày mai sẽ tát hào. Tin này bắt buộc người đã giấu cái gói đó phải chờ đêm tối, lôi nó lên. Vậy ông Barker, đã đến lúc ông phải giải thích.
Holmes đặt cái gói còn ướt sung lên bàn và tháo dây ra. Đầu tiên anh lôi ra một quả tạ, kế đó là một đôi giày da mui vuông.
- Giày kiểu Mỹ, như các ông thấy đấy. - Holmes nói.
Sau đó anh ta để lên bàn một con dao dài còn nằm trong bao. Rồi anh ta giở ra một mớ quần áo, gồm một bộ quần áo lót, một đôi tất, một bộ quần áo bằng vải tuýt xám, và một cái áo khoác màu vàng.
- Quần áo thì thường thôi. Chỉ có cái áo khoác là đáng chú ý. - Holmes nói.
Anh nhẹ nhàng trải nó ra trước ánh sáng, những ngón tay dài lần theo các đuờng khâu.
- Xem đây, túi trong của nó kéo dài mãi trong lần lót để có thể giấu đuợc một khẩu súng cưa nòng. Tên hiệu của người thợ may dính trên cổ áo dây: "Neale, thợ may, Vermissa, U.S.A". Tôi đã ở cả chiều hôm nay trong căn phòng đọc sách của ông hiệu trưởng trường, và đã học thêm đuợc một điều mới nữa: "Vermissa" là tên của một thành phố nhỏ ở trong thung lung nổi tiếng về các mỏ sắt và mỏ than tại Mỹ. Nếu tôi không quên, thì thưa ông Barker, chính ông đã có nói đến mối liên quan giữa những khu mỏ và người vợ trước của ông Douglas.
(Nokia x2-02)
Cho nên tôi suy luận từ đó ra rằng mấy chữ “V.V.” trên miếng bìa cứng tìm thấy bên cạnh người chết có nghia là “Thung lung Vermissa”[1] và chính cái thung lung này đã cử một người mang cái chết đến tận đây. Tất cả những điều ấy đã đủ rõ ràng. Và bây giờ, đến lượt ông, thưa ông Barker.
Trong lúc nghe Holmes trình bày, gương mặt Barker lần lượt hiện lên nét căm giận, kinh ngạc, buồn rầu, lúng túng. Cuối cùng ông ta lẩn trốn trong một thái độ mỉa mai và cười gằn:
- Ông biết nhiều đến thế, thì xin ông cứ nói thêm cho chúng tôi nghe.
- Tôi có thể nói thêm đuợc nữa, nhưng sẽ lịch sự hơn, nếu ông nói tiếp hộ cho tôi.
- ồ, ông tưởng thế à? Nếu ở đây có một bí mật gì, thì cái đó không phải là bí mật của tôi, và tôi không thể nói ra cái bí mật của người khác.
Ông thanh tra bình tinh:
- Nếu ông nghi như vậy, thì bắt buộc chúng tôi phải canh giữ ông cho đến khi chúng tôi nhận đuợc trát bắt ông.
Barker trả lời bằng giọng đầy thách thức:
- Ông cứ làm.
Sự đối chất hình như đã kết thúc. Bộ mặt rắn như đá hoa cương của Barker cho thấy rằng không có một sự đe dọa nào có thể bắt đuợc ông ta nói. Nhưng bà Douglas đã bước vào phòng.
- Anh Barker, anh đã giúp chúng tôi quá nhiều rồi.
Sherlock Holmes tán thành với một giọng nói rất nghiêm trang:
- Tôi rất thông cảm với bà, và tôi xin khuyên bàn nên tự giác báo cáo tất cả với cảnh sát, chính tôi cung có lỗi vì đã không đáp ứng lời thỉnh cầu của bà, khi bà nói với bác sỹ Watson đây. Lúc đó tôi tin rằng bà là người có dính líu trực tiếp đến án mạng. Bây giờ tôi biết là không phải thế.
Bà Douglas thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc khi nghe những lời nói cuối cùng của Holmes.
Hai nhà thám tử và cả tôi nữa có lẽ cung đã kêu lên như thế, khi chúng tôi trông thấy một người như là trong bức tường hiện ra, đang buớc dần ra khỏi bóng tối, tiến về phía ánh đèn. Bà Douglas nhào vào, ôm lấy cổ người đó. Barker cung nắm chặt một cách trìu mến bàn tay của người đó. Bà Douglas nhắc đi nhắc lại:
- Anh yêu quí, có lẽ thế này tốt hơn anh ạ.
Holmes gật đầu tán thành:
- Vâng, đúng đấy, thưa ông Douglas.
Ông Douglas chớp chớp đôi mắt màu xám, một bộ râu cứng đã hoa râm; một cái cằm vuông nhô ra và một cái miệng nhậy cảm. Ông ta lần lượt nhìn chúng tôi, rồi bỗng tiến về phía tôi và đua cho tôi một tập giấy làm tôi hết sức ngạc nhiên.
Ông ta nói bằng một giọng hết sức dễ chịu:
- Tôi biết ông, bác sỹ Watson, chưa bao giờ ông có một câu chuyện giống như câu chuyện này. Tôi đã tự giam mình trong hai ngày, và đã lợi dụng những giờ có ánh sáng, trong cái lỗ chuột ấy, để viết lại toàn bộ sự việc. Đó là câu chuyện về "Thung lung khủng khiếp".
Holmes xen vào:
- Ông Douglas, đó là câu chuyện về quá khứ. Bây giờ chúng tôi muốn biết câu chuyện của hiện tại kia.
- Ông sẽ đuợc nghe ngay bây giờ. Tôi có thể vừa hút thuốc, vừa nói đuợc không? Xin cảm ơn ông Holmes.
Ông ta đứng dựa lưng vào lò sưởi, kéo những hơi thuốc dài.
- Tôi có đuợc nghe nói nhiều về ông, ông Holmes. Tôi không nghi rằng có ngày tôi lại đuợc làm quen với ông. Nhưng khi ông đã đọc xong tất cả những cái này ....
Ông ta chỉ vào tập giấy vừa đua cho tôi.
- ... thì chắc chắn ông sẽ nói rằng tôi có đem lại cho ông một điều gì mới lạ.
Ông thanh tra MacDonald vẫn không rời mắt nhìn Douglas, mãi rồi mới nói lên đuợc:
- Chuyện này thật vượt quá sức hiểu biết của tôi, hai ngày nay chúng tôi điều tra về cái chết của ông, thì bây giờ ông như một bóng ma từ dưới mồ chui lên vậy.
Holmes trách móc, chỉ về phía ông thanh tra:
- Trong cái tài liệu mà tôi đã đua cho ông, có mô tả cái cách vua Charles đã ẩn náu trong lâu đài này. Một chỗ ẩn dùng trong thế kỷ thứ XVII rất có thể còn dùng đuợc trong ngày nay.
Ông thanh tra nổi giận thật sự, hỏi lại:
- Thế ông đã đóng kịch với chúng tôi từ bao lâu rồi, ông Holmes?
- Chỉ mới từ tối hôm qua thôi. Vì phải đợi đến tối hôm nay mới có thể chứng minh đuợc điều này, nên tôi có mời quý ông nghỉ xả hơi một ngày. Khi đã thấy gói quần áo trong đuờng hào, tôi biết rằng xác chết kia không phải là xác của ông Douglas mà là của người đi xe đạp. Vì vậy tôi phải đi tìm nơi ông Douglas ẩn nấp, ông đã ẩn nấp dưới sự yểm trợ của vợ và bạn ông ta.
- Ông lý luận rất đúng. Tôi hài lòng vì đã gạt bỏ đuợc những con chó vẫn đi tìm dấu chân tôi. Ông thanh tra, tôi sẽ nói hết:
Có một vài người có nhiều lý do để căm thù tôi và sẵn sàng giết tôi. Chừng nào mà chúng còn sống, thì tôi không hề có an ninh. Chúng đã theo tôi từ Chicago đến California, rồi còn bắt buộc tôi, phải rời khỏi Châu Mỹ. Khi tôi cưới vợ và về sống ở đây, tôi đã tưởng những năm cuối của đời tôi là vô sự. Tôi chưa bao giờ nói rõ cho nhà tôi hiểu mọi chuyện vì nếu biết, nhà tôi cung sẽ luôn sống trong lo sợ...
Douglas nắm chặt lấy tay vợ.
- ... Thưa các ông, một ngày trước hôm xảy ra sự việc, tôi có đi Tunbridge Wells, và có gặp một người ở ngoài phố. Chỉ thoáng nhìn hắn thôi, tôi cung biết hắn là kẻ thù tệ hại nhất của tôi. Tôi trở về đây và tiến hành những biện pháp tự vệ.
(Nokia x2-02)
Tôi đã cảnh giác không bước chân ra đến ngoài vườn. Khi cây cầu đã đuợc kéo lên, tôi mới yên tâm hơn, nhưng, tôi không ngờ rằng nó đã lẻn vào trong lâu đài và chờ tôi ở đây. khi đi kiểm tra, vừa đặt chân vào căn buồng này thì tôi cảm thấy ngay có sự nguy hiểm. Tôi thấy một đôi giầy thò ra dưới bức rèm cửa sổ, và một giây đồng hồ sau, tôi thấy cả con người đang nấp ở đó. Lúc đó tôi chỉ có một cây nến cầm ở tay, nhưng cây đèn ở buồng ngoài cung chiếu sáng khá tốt. Tôi để cây nến xuống bàn, và nhảy đến chộp lấy cây búa trên lò sưởi. Cùng lúc đó hắn cung nhảy bổ vào tôi. Tôi trông thấy ánh lên một lưỡi dao nhọn, và tôi đã đập nó bằng một nhát búa quay ngang. Con dao rơi xuống sàn. Nó đã lanh lẹ vòng qua chiếc bàn và lôi ra một khẩu súng giấu dưới chiếc áo khoác. Tôi nghe thấy nó lên đạn, nhưng tôi đã nắm đuợc khẩu súng. Tôi nắm đuợc nòng súng. Tôi với nó vật lộn trong khoảng một hai phút gì đó. Nó không rời khẩu súng, nhưng nó đã để báng súng chúc xuống dưới. Không biết là tôi đã bóp cò, hay chính nó đụng phải cò. Chỉ biết rằng nó đã lãnh cả hai viên đạn vào mặt.
Tôi đang đứng bám vào thành bàn thì anh Barker chạy vào. Tôi cung nghe thấy tiếng chân nhà tôi chạy đến nữa. Tôi ngăn nhà tôi lại. Tôi hứa với nhà tôi là sẽ lên với bà ấy ngay. Tôi nói đôi câu với anh Barker, và chỉ thoáng nhìn qua là anh đã hiểu hết tất cả mọi chuyện. Chúng tôi chờ gia nhân trong lâu đài chạy đến. Nhưng chẳng thấy ai đến cả. Lúc đó chúng tôi mới hiểu rằng không ai nghe thấy tiếng súng nổ, và chỉ có chúng tôi biết việc gì mới xảy ra thôi. Chính vào lúc này tôi chợt có ý kiến. Tôi vén cánh tay áo nó lên, và chúng tôi thấy ngay cái dấu hiệu của hội kín in trên đó, Đây các ông xem ....
Douglas cung vén tay áo ngoài và tay áo sơ mi lên, chỉ cho chúng tôi thấy một cái hình tam giác màu nâu nằm trong một đuờng tròn, giống như cái hình chúng tôi đã thấy trên tay xác chết.
- Khi tôi nhìn thấy cái dấu hiệu đó, tôi bắt đầu xếp đặt kế hoạch. Nó cung cỡ người như tôi, cũng tóc hoa râm và dáng dấp cung gần giống tôi. Còn về bộ mặt thì chẳng còn ai phân biệt ra đuợc nữa. Tôi trở lên phòng để lấy bộ quần áo, và 15 phút sau thì Barker và tôi đã mặc vào cho nó cái áo khoác ngoài của tôi, rồi đặt nó nằm như các ông đã thấy đấy. Chúng tôi bọc hết quần áo của nó vào trong một cái gói, rồi buộc thêm vào đó quả tạ, là vật nặng duy nhất mà tôi tìm thấy lúc bấy giờ, sau đó đem ném cả gói qua cửa sổ. Mẩu bìa cứng mà nó định để cạnh xác tôi, thì nay tôi đem để cạnh xác nó. Tôi đeo mấy cái nhẫn của tôi vào ngón
tay nó, nhưng đến cái nhẫn cưới thì...
Douglas chìa ra một bàn tay to lớn.
- ... Từ ngày cưới nhà tôi đến giờ, tôi chưa hề tháo nó ra, và bây giờ có lẽ phải có một cái giua thì mới lấy nó ra đuợc. Tôi phải bóc cả miếng băng dính duới cằm của tôi và dán vào cùng một chỗ trên cái phần còn lại của đầu kẻ thù. Ông Holmes, mặc dù ông là người tinh khôn, nhưng ông cũng đã có lúc sơ ý: vì nếu ông dở miếng băng dính ấy lên, thì ông sẽ thấy ở dưới không có một dấu đứt nào cả.
Tôi định ẩn náu trong ít lâu; rồi đi đến một nơi nào đó, nhà tôi sẽ đến sau, thì may ra tôi còn có thể sống yên ổn đuợc trong những ngày cuối cùng của đời mình. Bây giờ tôi có một điều muốn hỏi các ông: "Đối với luật pháp nước Anh, thì tội của tôi sẽ như thế nào?"
Tất cả mọi người đều yên lặng. Mãi sau, Holmes mới lên tiếng:
- Luật pháp nước Anh, nói chung, là một luật pháp đúng đắn. Luật pháp này sẽ công bằng đối với ông. Nhưng tôi muốn biết tại sao người đó lại biết ông ở đây, và hắn làm cách nào mà lọt đuợc vào căn buồng này.
- Tôi hoàn toàn không biết.
Holmes tái nhợt, rất nghiêm trọng, nói như thì thầm.
- Như thế thì câu chuyện này chưa kết thúc đâu. Ông sẽ còn phải đuong đầu với những mối nguy hiểm còn ghê gớm hơn cả những kẻ thù của ông ở bên Mỹ nữa kìa. Xin ông hãy theo lời khuyên của tôi: Hãy hết sức cảnh giác.
Và bây giờ, xin mời các bạn độc giả hãy theo tôi rời lâu đài Birlstone, lùi về quá khứ 20 năm, vuợt qua một ngàn dặm về phía Tây, để nghe một câu chuyện lạ lùng và khủng khiếp. Và sau đó chúng ta sẽ trở lại gian buồng ở phố Baker, là nơi sẽ viết chương cuối của câu chuyện này.
---
[1] Nguyên văn: Vermissa Valley
(Nokia x2-02)
Chương 8: Con người ấy.
Ngày 4 tháng 2 năm 1875 tuyết phủ đầy các đường đèo của ngọn núi Gilmerton. Chiếc xe quét tuyết đã dọn sạch được con đường hoả xa nối liền các trung tâm mỏ than và sắt. Một con tàu đang ì ạch leo lên con đường đèo chạy từ tỉnh Stagville lên thị trấn Vermissa. Từ đó, đường tàu lại đổ xuống đến giao điểm của Bartons Crossing, Helmdale và vùng nông nghiệp Merton. Hàng dãy dài những toa xe goòng chất đầy than hoặc quặng sắt đã lôi kéo đến đây cả một số lớn những người nhiều ý chí. Mà vùng này hiểm ác thật. Những ngọn núi trọc, trắng xóa tuyết, nhô lên từ những cánh rừng tối tăm, rậm rạp đã tạo ra một thung lũng dài ngoằn ngoèo và lộng gió. Chính trong thung lũng này, con tàu đang bò dần lên, vừa đi vừa thở phì phò.
Mấy ngọn đèn dầu hỏa mới vừa được thắp lên, trên toa hành khách thứ nhất có khoảng độ 20 hay 30 người. Phần đông họ là những thợ thuyền đi làm việc ở dưới thung lũng về. ít nhất cũng có đến mười, mười hai người mặt mũi nhem nhuốc, có đeo những cây đèn an toàn. Họ hút thuốc và nói chuyện rì rào, thỉnh thoảng liếc nhìn về phía hai người cảnh sát mặc sắc phục đang đứng ở đầu toa. Có cả một số nữ công nhân và vài ba người buôn bán ở địa phương.Nhưng ở một góc toa tàu, có một người trẻ tuổi ngồi một mình.
Anh ta gần ba mươi tuổi, nước da tươi tắn, vóc người trung bình. Đôi mắt mầu xám mở to vừa khôn ngoan, vừa tinh nghịch lóng lánh sau cặp kính. Rõ ràng đây là một con người cởi mở và giản dị, nụ cười sẵn sàng nở trên môi. Mới thoạt nhìn thì như vậy. Nhưng quan sát kĩ thêm nữa, sẽ thấy một cái quai hàm rắn chắc và chung quanh đôi môi, những vết nhăn nghiêm nghị, chứng tỏ cái anh chàng trẻ tuổi người Ailen này cũng không phải là một tay vừa.
Sau khi ba lần thử bắt chuyện với người thợ mỏ gần nhất, và chỉ nhận được vài tiếng trả lời càu nhàu, anh chàng đành ngồi yên, buồn bã nhìn qua cửa kính, ngắm một phong cảnh chẳng có gì thích thú. Đêm xuống dần, những tia lửa đỏ của các lò đúc lập lòe trên các sườn núi, soi sáng những đống than và xi quặng cùng những giếng mỏ. Rải rác đó đây, dọc theo đường tàu, những xóm nhà gỗ nhỏ đã bắt đầu lên đèn. Tàu dừng lại ở nhiều nơi, ở mỗi nơi lại có những toán thợ thuyền bước xuống.
Người hành khách trẻ tuổi ngắm nhìn xứ sở u buồn này một cách vừa chăm chú vừa ghê sợ. Thỉnh thoảng anh ta lại lôi từ trong túi ra một phong thư dày cộm, đọc một vài đoạn rồi lại nghí ngóay vài chữ lên đó. Có một lần, anh ta lôi từ đằng sau chiếc thắt lưng ra một khẩu súng lục. Khi anh ta nghiêng nó về phía ánh sáng đèn, thì thấy rõ là khẩu súng đã lên đạn. Anh ta lại vội nhét nó vào trong túi áo. Một người thợ nói:
- Này anh bạn, anh có vẻ chuẩn bị dữ quá đấy!
Người trẻ tuổi mỉm cười, hơi lúng túng:
- Đúng. ở chỗ tôi sống trước đây, đôi lúc cũng cần đến nó.
- Thế anh ở đâu đến?
- ở Chicago.
- Anh chưa đến đây bao giờ?
- Chưa.
- Rồi sẽ thấy, ở đây anh cũng cần nó.
- Thật không?
- Anh chưa nghe gì ở đây à?
- Chưa.
- Thế mà tôi cứ tưởng là chuyện đã lan ra khắp xứ sở rồi chứ. Nhưng không lâu đâu, rồi anh sẽ biết hết. Thế tại sao anh lại đến cái thung lũng này?
- Tôi tìm việc làm.
- Anh có vào nghiệp đoàn không?
- Có chứ.
- Thế thì anh sẽ được toại nguyện. Anh có bạn bè không?
- Chưa, nhưng sẽ có.
- Nhờ đâu?
- Tôi là hội viên của "Hội những Người Tự Do". Trong mỗi tỉnh đều có một chi hội.
Người thợ sửng sốt, liếc nhìn những người cùng ngồi trong toa với cặp mắt ngờ vực. Nhưng những người thợ mỏ vẫn rì rào nói chuyện. Hai người cảnh sát thì ngủ gà, ngủ gật. Người thợ liền đứng dậy đi lại gần người trẻ tuổi, ngồi xuống bên cạnh anh ta, chìa tay ra và nói:
- Vậy hãy bắt tay tôi đi.
Họ trao đổi nhau một cái bắt tay theo một kiểu riêng nào đó.
- Được rồi. Anh nói sự thật. Nhưng tôi muốn chắc chắn hơn kia...
Người thợ giơ tay phải lên ngang tầm mắt phải, Anh trẻ tuổi vội giơ ngay tay trái lên ngang tầm mắt trái. Người thợ nói:
- Những đêm đen tối rất khó chịu.
Anh kia trả lời:
- Phải, nhất là cho những người lạ mà phải đi lại.
- Thôi đủ rồi, Tôi là Scanlan, chi nhánh 341, thung lũng Vermissa, sung sướng được gặp anh trong vùng này.
- Cảm ơn. Tôi là John McMurdo, chi nhánh 29, Chicago. Toán trưởng: J.H.Scott. Tôi may mắn gặp được một môn huynh như anh.
- Không ở đâu mà Hội lại phồn thịnh như ở Thung lũng này. Có điều tôi không hiểu được là tại sao một hội viên năng nổ như anh mà lại không tìm được việc làm ở Chicago.
- ở đó, tôi có thể tìm được bất cứ việc nào mà tôi muốn. - McMurdo trả lời.
- Thế thì tại sao anh lại bỏ đi?
McMurdo mỉm cười trỏ người cảnh sát:
- Hai ông cố nội này mà biết được lý do thì hẳn là vui lắm.
- Chuyện lôi thôi à? - Scanlan thì thào.
- Nặng.
- Tù được không?
- Chưa đủ.
- Không phải án mạng chứ?
McMurdo trả lời như một người vừa chợt nhận thấy rằng mình đã nói hơi quá:
- Mình có những lý do để ra đi. Anh nghe đến thế là đủ rồi nhé.
- Tôi không hỏi nữa. Tôi không muốn làm mất lòng anh mà. Các bạn ở đây sẽ không đánh giá xấu anh đâu.
(Nokia x2-02)
Thế bây giờ anh định đi đâu?
- Đến Vermissa.
- Còn ba ga nữa thì đến. Thế anh định ở đâu?
McMurdo rút ra một chiếc bì thơ, đưa đến gần ngọn đèn:
- Địa chỉ đây: Cụ Jacob Shafter. Đường Sheridan. Đây là một nhà nấu cơm trọ. Có người ở Chicago mách cho tôi.
- Tôi không biết nhà trọ này. Vermissa không nằm trong khu của tôi. Tôi ở Hobson s Patch, ga sau là đến. Nhưng mà này, nếu anh có chuyện gì lôi thôi ở Vermissa, thì cứ đi thẳng đến nhà hội quán và vào tìm ông chủ McGinty. Ông ta là toán trưởng của chi nhánh Vermissa. Thôi tạm biệt, sẽ gặp lại nhau ở chi hội.
McMurdo ngồi lại một mình với những ý nghĩ quay cuồng trong đầu. Đêm đã xuống hẳn. Trong khung cảnh tranh tối tranh sáng đó, những dáng người đen sẫm cúi xuống co, kéo, quay đi quay lại với những động tác của người máy, theo nhịp điệu những tiếng gầm gừ của sắt thép.
Một tiếng nói bỗng cất lên:
- Địa ngục có lẽ cũng giống thế này thôi.
McMurdo quay lại: Một người cảnh sát đã đến ngồi bên cạnh anh và đang ngắm nhìn cái cảnh tượng khủng khiếp đó, Người cảnh sát kia gật đầu đáp lại.
- Đúng. Nếu ở địa ngục mà có những con quỷ sứ dữ tợn hơn một số kẻ ở đây thì tôi sẽ rất ngạc nhiên. Anh mới về vùng này phải không?
- Phải. - McMurdo trả lời.
- Tôi khuyên anh hãy cẩn thận trong việc chọn bạn. Không nên kết bạn với Scanlan hay cái băng của hắn.
- Đó là chuyện riêng của tôi, các anh can dự vào làm gì?
McMurdo nhe hai hàm răng ra cười.
Hai người cảnh sát ngạc nhiên khi thấy thiện chí của mình bị đáp lại một cách thô bạo. Một người nói:
- Đấy là một lời báo động chỉ có lợi cho anh thôi.
McMurdo vẫn cứ tái đi vì tức giận, hét lên:
- Tôi không biết vùng này thật, nhưng tôi biết rằng mỗi lần mở miệng là các anh cứ khuyên với răn.
- Thôi được, chúng tôi sẽ được biết anh rõ hơn, anh có vẻ "chịu chơi" lắm.
Người cảnh sát kia bồi thêm:
- Đúng, rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau, không lâu đâu.
- Tên là Jack McMurdo.
Hai người cảnh sát nhún vai và quay ra nói chuyện với nhau. Mấy phút sau, tàu từ từ vào một cái ga tối tăm, và nhiều người bước xuống, vì Vermissa là thị trấn lớn nhất trên tất cả tuyến đường. McMurdo cầm cái bọc lên. Khi anh sắp đi vào trong bóng tối của sân ga, thì một người thợ mỏ đến nắm lấy tay anh:
- Đưa cái bọc đây tôi mang cho, và tôi sẽ chỉ đường cho anh.
Khi hai người đi đến sân ga, ngang qua đám thợ mỏ, hàng loạt tiếng chào nổi lên. Thế là trước khi đặt chân xuống Vermissa, McMurdo đã trở thành một nhân vật nổi tiếng ở đó rồi.
Đứng dưới thung lũng nhìn mấy đống lửa ngất trời cùng những đám khói dày đặc còn thấy một cái gì là hùng vĩ, ở đấy con người nhờ sức hai bàn tay và bộ óc đã đẽo gọt những ngọn núi bằng máy và dựng lên những công trình. Trái lại, về đến thị trấn, chỉ thấy toàn một sự nhớp nhúa và xấu xí. Đường phố chính đã bị xe cộ đi lại biến thành một thứ tuyết pha bùn nhão như hồ. Những cây dèn chỉ dùng để làm lộ ra những dãy nhà bằng gỗ, mặt tiền có một hàng lan can, tất cả đều nhếch nhác bẩn thỉu. Vào đến trung tâm thì một vài cửa hàng có thắp đèn sáng hơn, nhưng cả một đám nhà chỉ là những hàng cà phê và sòng bạc, để cho thợ mỏ đến
vung phí tiền lương.
Người đưa đường chỉ vào một cái quán rượu to, nói;
- Đấy nhà hội quán đấy, McGinty là ông chủ.
- Ông ta như thế nào?
- Anh chưa bao giờ nghe nói đến ông ta?
- Tôi mới đến.
- Thế mà tôi cứ tưởng là khắp xứ này phải biết đến ông ta. Ông ta được đăng báo hoài mà.
- Tại sao báo lại đăng tên ông ta?
- ờ thì vì...
Người thợ mỏ hạ giọng xuống nói nhỏ:
-... Vì áp phe mà.
- áp phe gì?
- áp phe của những "Người Tiên Phong".
- ừ, ở Chicago tôi cũng có đọc một cái gì đấy về những "Người Tiên Phong". Chúng nó là một bọn sát nhân, phải không?
Người thợ mỏ hoảng hốt, nói lạc cả tiếng:
- Anh muốn sống thì im ngay đi. Này anh, ở đâu mà ăn nói kiểu đó, thì không được đâu, đi mò tôm đó.
- Không, tôi chỉ biết được đôi chút thôi.
Anh ta liếc chung quanh, nhìn những bóng đen và đêm tối như là sợ hãi một sự nguy hiểm nào đó.
- Nếu giết người có nghĩa là ám sát. Thì ở đây những vụ ám sát đem bán "xôn" cũng không hết. Nhưng anh đừng có dại dột mà đem cái tên của McGinty đi kèm với các vụ ám sát. Bởi vì ông ta không tha thứ cho bất cứ ai xì xào về ông ta. Đây căn nhà mà anh tìm ở lùi vào đằng sau đường phố một chút đó.
McMurdo bắt tay người bạn mới:
- Xin cám ơn anh.
Anh ta đi lên con đường dẫn vào nhà, và gõ cửa. Hai cánh cửa mở ngay ra: trước mặt anh là một phụ nữ còn trẻ, đẹp kì lạ. Cô ta có dáng người xứ Thụy Điển, bộ tóc vàng óng lộng lẫy tương phản với đôi mắt đen nhánh. Cô ngạc nhiên nhìn người thanh niên lạ mặt, và sự lúng túng làm sắc mặt đỏ hồng lên, một đóa hoa tươi thắm nở trên một đống than xỉ. Anh mê mẩn ngắm cô gái, không nói được nên lời và cuối cùng cô ta phải lên tiếng:
- Tôi tưởng là ba tôi về. Ông đến tìm ba tôi? Ba tôi lên phố, cũng sắp về.
McMurdo vẫn cứ ngắm say sưa:
- Thưa cô. Tôi không vội lắm, tôi đến đây để xin ở trọ.
- Vậy xin mời ông vào. Tôi là Ettie Shafter, con gái ông Shafter.
(Nokia x2-02)
Trang 1, 2, 3, 4, 5 • Chuyển đến trang
Trả lời nhanh