THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ Tác giả: Dan Brown Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình
chương 9
Xác chết trên sàn nhà trướcmặt Langdon trông thật gớm ghiếc. Leonardo Vetra quá cố đang nằm ngửa, bị lột trần truồng, da xám xịt. Chỗ xương cổ bị gãy thò ra, đầu bị vặn ngược hoàn toàn. Mặt úp xuống sàn nhà, không nhìn thấy được. Người đàn ông này đang nằm trên đống nước tiểu đãđông cứng lại của chính mình, nhúm lông xung quanhbộ phận sinh dục của ông talấm tấm sương giá.. Cố kìm để không nôn oẹ, Langdon đưa mắt nhìn lên ngực nạn nhân. Dù Langdon có nhìn kỹ vết thương hình đối xứng trên tờ fax hàng chục lần, thì rõ ràng ở đây vết cháy trên thực tế vẫn tác động mạnh hơn nhiều. Chỗ thịt cháy sần sùi tạo thành… một biểu tượng hoànchỉnh. Langdon băn khoăn không hiểu liệu có phải anh lạnh người đi là do điều hoà nhiệt độ hay vì sự ngạc nhiên đến tột cùng trước tầm quan trọng của thứ mà anh được nhìn tận mắt. Tim anh đập thình thịch khi đi vòng quanh xác chết, đọcngược, đọc xuôi, khẳng định lại tính xác thực của hình đối xứng. Biểu tượng này không thể là giả mạo. - Ông Langdon? Langdon không nghe thấy gì. Anh đang ở một thế giới khác… thế giới của riêng anh, nơi lịch sử, truyền thuyết và sự thật hoà quyện vào nhau, khiến tim anh tràn ngập cảm xúc. Tất cả như bị cuốn vào một guồng quay. - Ông Langdon? - Kohler nhìn anh thăm dò, đầy vẻ hy vọng. Langdon không ngẩng lên. Anh đang tập trung cao độ: - Ông biết được gì rồi nào? - Điều duy nhất tôi đọc được trên trang web của ông là từ Illuminati có nghĩa là "những người khai sáng" - Đây là tên một hội kín cổ xưa gì đó. Langdon gật đầu: - Ông đã nghe nói đến nguyên tử này bao giờ chưa? - Chưa, cho đến khi tôi nhìnthấy nó được khắc trên người ồng Vetra. - Vì vậy ông tìm một trang web nói về thứ này? - Đúng. - Và kết quả cho ra hàng trăm tài liệu tham khảo, tôi chắc là như vậy - Hàng ngàn, - Kohler nói. Trang web của ông chứa những tài liệu tham khảo từ Harvard, Oxford, nhiều nhàxuất bản danh tiếng cũng như danh sách các ấn bản liên quan. Là một nhà khoa học, tôi nhận ra rằng thông tin cũng như nguồn dẫn đều có giá trị. Uy tín của ông có vẻ rất đáng tin cậy.
THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ Tác giả: Dan Brown Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình
chương 10
Trong con hẻm hẹp và vắngvẻ, tên sát thủ sải những bước dài, đôi mắt đen của hắn sáng quắc lên những tiahy vọng. Khi gần đến đích, những lời nói của Janus lúc chia tay vang lên trong tâm trí hắn. Giai đoạn hai sẽ sớmbắt đầu thôi. Nghỉ ngơi đi đã. Tên sát thủ cười khẩy. Hắn đã thức cả đêm rồi, nhưng giấc ngủ vẫn là thứ xa vời trong tâm trí hắn. Giấc ngủ chỉ làm hắn yếu đi. Hắn là một chiến binh, như tổ tiên của hắn và người dân của hắn không bao giờ ngủ một khi cuộc chiến đã nổ ra. Trận chiến này thực sự đã bắt đầu và hắn có vinh hạnh được ra tay đầu tiên. Còn bây giờ hắn có hai tiếngđồng hồ ăn mừng chiến thắng trước khi công việc tiếp theo bắt đầu. Ngủ ử? Còn nhiều cách hay hơn để thư giãn… Niềm đam mê khoái lạc là thứ mà tổ tiên đã gieo trồngcon người hắn. Những bậc tiền bối của hắn đắm chìm trong chất gây nghiện hashish, còn hắn thì lại thíchmột phần thưởng khác. Hắn tự hào về cơ thể mình - mộtcỗ máy giết người được phối hợp nhịp nhàng mà hắnkhông bao giờ để nó bị nhiễm ma tuý. Hắn nghiện một thứ còn bổ dưỡng hơn thuốc phiện… một phần thưởng lành mạnh và thoả mãn hơn nhiều. Một cảm giác đê mê quen thuộc trỗi lên trong người hắn. Tên sát thủ rảo bước về phía cuối con hẻm. Hắn đến bên một cánh cửa được nguỵ trang và ấn chuông. Ôcửa con quan sát hé mở, một đôi mắt màu nâu nhạt quan sát hắn một cách kỹ lưỡng. Rồi cánh cửa lớn mở ra. - Mời vào, - người phụ nữ ăn mặc cầu kỳ lên tiếng. Bà ta dẫn hắn đến một phòng khách bày biện hoàn hảo dưới ánh đèn mờ mờ. Không gian tràn ngập mùi nước hoavà xạ hương. - Bất cứ khi nào ngài sẵn sàng. - Bà ta đưa cho hắn một tập ảnh. - Hãy gọi cho tôi khi ngài đã chọn lựa xong. - Rồi bà ta biến mất. Tên sát thủ mỉm cười. Ngồi trên chiếc đi-văng sang trọng, đặt cuốn album lên đùi, tên sát thủ thấy cơnđói nhục dục đang trỗi dậy khắp cơ thể. Dù dân tộc hắnkhông có lễ Giáng sinh nhưng hắn vẫn có cảm giác của một đứa trẻ Công giáo ngồi trước đống quà Giáng sinh, háo hức khám phá điều thần kỳ ở bên trong. Hắn mở quyển album và xem xét kỹ các bức ảnh. Niềm đam mê dục vọng ánh lên trong mắt hắn. Marisa. Nữ thần Italia. Thân hình bốc lửa. Một Sophia Loren trẻ. Sachiko. Một Geisha Nhật Bản. Cơ thể mềm mại. Cực kỳ điêu luyện. Kanara. Hình bóng sững sờ của Châu Phi. Dáng người cơbắp. Vẻ đẹp kì lạ. Hắn xem xét kỹ cuốn album hai lần, chọn lựa rồi đưa tay ấn nút trên bàn. Một phút sau, người phụ nữ banđầu xuất hiện. Hắn chỉ cô gái hắn chọn. Bà ta mỉm cười: - Đi theo tôi. Sau khi thoả thuận về tiền bạc, người phụ nữ im lặng nhấc máy. Bà ta chờ vài phút rồi dẫn hắn leo lên những bậc cầu thang đá hoa cương uốn lượn dẫn đến một hành lang sang trọng. - Cánh cửa màu vàng ở cuốidãy. - Bà ta nói - Ngài quả là người sành sỏi. Xứng đáng chứ, hắn nghĩ. Ta là kẻ sành sỏi mà. Tên sát thủ nhẹ bước hết chiều dài hành lang như mộtcon báo đã phải đợi bữa ăn quá lâu. Đến gần cánh cửa, hắn tự mỉm cười. Cửa mở hé… đón chào hắn bước vào. Hắn đẩy nhẹ và cánh cửa mở ra không một tiếng động. Nhìn thấy sự chọn lựa của mình, hắn biết là đã không nhầm. Cô ta chính là người hắn yêu cầu… trần truồng, nằm ngửa, hai tay bị trói vào cộtgiường bằng dây vải nhung. Hắn tiến vào phòng và đưa tay lên vuốt ve thân hình ngọc ngà của cô ta. Đêm quata đã giết người, hắn nghĩ. Cô em là phần thưởng của ta.
THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ Tác giả: Dan Brown Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình
chương 11-phần 1
Quỷ Sa-tăng? - Kohler lau miệng và khó chịu đổi tư thế. - đây là biểu tượng củanghi lễ sùng bái quỷ Sa-tăng à? Langdon đi đi lại lại trong phòng cho ấm người. - Hội Illuminati sùng bái Sa-tăng. Nhưng không phải theo quan niệm hiện tại. Langdon nhanh chóng giải thích tại sao đa số mọi người hình dung tôn giáo thờ quỷ Sa-tăng là hội thờ quỷ dữ mặc dù trong quá khứ,hội Sa-tăng đều là những người có học nhưng chống lại nhà thờ.Shaitan.Lời đồn đại về lễ hiến tế các động vật mang tính tà thuật và ngôi sao năm cánh chỉ là những điều dối trá mà nhà thờ tuyên truyền nhằm chống lại những kẻ đối nghịch.Qua thời gian,những kẻ chống lại nhà thờ muốn ganh đua với Illuminatinên bắt đầu tin vào lời nói dối đó và thực thi các nghi lễ này.Vì vậy trò thờ cúng quỷ Sa-tăng kiểu hiện đại ra đời. Kohler đột nhiên làu bàu: - Đây chỉ là lịch sử xa xưa.Tôi muốn biết làm sao biểu tượng này lại ở đây. Langdon thở dài: - Biểu tượng này được một nghệ sĩ vô danh của hội Illuminati tạo ra để tôn vinh niềm say mê của Galileo đối với cấu trúc đối xứng - mộtbiểu tượng thiêng liêng của Illuminati.Hội kín này giữ bí mật thiết kế của mình.Ngườita cho rằng họ chỉ để lộ ra khi đã có đủ sức mạnh để trỗi dậy từ trong bóng tối và thực hiện mục tiêu tối thượng. Kohler hoang mang: - Vậy dấu hiệu này cho thấy hội Illuminati đang sốngdậy? Langdon nhíu mày: - Không thể nào. Còn một chương trong lịch sử Illuminati tôi vẫn chưa giải thích hết. Giọng Kohler đầy vẻ van lơn: - Khai sáng cho tôi đi nào. Langdon xoa hai bàn tay vào nhau, trong đầu đang lựa chọn từ hàng trăm nguồn tài liệu anh đã từng đọc hoặc viết về Illuminati. - Những thành viên còn sống sót của Illuminati, - anh giải thích, chạy trốn khỏi Rome, đi khắp châu Âu, rồi tìm nơi an toàn để nhóm họp lại. Họ được một hội bí mật khác thu nhận… hội thợ thủ công khắc đá Bavanan giàu có hay còn gọi là hội Tam Điểm. Kohler giật mình: - Hội Tam Điểm? Langdon gật đầu, không hề ngạc nhiên khi thấy Kohler đã từng nghe nói đến nhóm người đó. Hội Tam Điểm hiệncó hơn 5 triệu thành viên trên khắp thế giới, một nửa đang cư trú tại Mỹ và trên 1triệu người ở châu Âu. - Có một điều chắc chắn: hộiTam Điểm không phải là nhóm tôn thờ Sa-tăng. - Kohler tuyên bố, dù không giấu nổi vẻ hoài nghi. - Chắc chắn là không. Hội Tam Điểm là nạn nhân của chính lòng từ bi của họ. Sau khi giang tay đón tiếp những nhà khoa học đang bỏ chạy ở thế kỷ XVIII, hội này đã vô tình trở thành lá chắn cho Illuminati. Dưới sự che chở của hội Tam Điểm, Illuminati dần phát triển và từ từ thay thế quyền lực của những người lãnh đạo trong hội. Những người này âm thầm gây dựng lại hội Illuminati trong lòng Tam Điểm - một hội bí mật tồn tạitrong một hội bí mật khác. Rồi các thành viên của Illuminati sử dụng những chi nhánh của hội Tam Điểm trên toàn thế giới để truyềnbá ảnh hưởng của họ. Langdon hít một hơi dài trước khi tiếp tục. - Xoá sổ Cơ đốc giáo là lời thề của các thành viên hội Illuminati. Tín điều của hội này là nhà thờ là kẻ thù không đội trời chung của loài người. Họ sợ rằng nếu nhà thờ tiếp tục tuyên truyền các truyền thuyết tôn giáo như những chân lí và đà phát triển khoa học bị chặn lại thì con người sẽ rơi vào một tương lai u tối với những cuộc chiến tranh tôn giáo vô nghĩa. - Giống như những gì chúngta thấy ngày nay! Langdon nhíu mày. Kohler nói đúng. Chiến tranh tôn giáo vẫn trở thành tiêu đề lớn trên các báo. Chúa của ta tốt đẹp hơn Chúa của cácngười. Dường như luôn có mối liên hệ giữa các tín đồ cuồng tín và số lượng các xác chết. - Tiếp tục đi, - Kohler nói. Langdon tập trung suy nghĩvà tiếp tục câu chuyện. - Illuminati ngày càng lớn mạnh ở châu Âu là bắt đầu hướng tới nước Mỹ, nơi có nhiều nhà lãnh đạo chính phủ là người của Tam Điểm - George Washington, Ben Franklin - những con chiên ngoan đạo không thể ngờ Illuminati lại thao túng hội Tam Điểm đến mức độ ấy. Illuminati biết cách thâm nhập và thiết lập các ngân hàng, trường đại học, các ngành công nghiệp nhằm cung cấp tài chính cho mục đích tối cao của họ. - Langdon ngừng lại. - Tạo ramột thế giới không nhất phi tôn giáo - một trật tự thế giới mới trên thế gian. Kohler không nhúc nhích. - Một trật tự thế giới mới, - Langdon lặp lại, dựa trên công cuộc khai sáng khoa học. Họ gọi nó là Học thuyết Ma Vương. Nhà thờ cho rằng Ma Vương có liên hệ tới quỷ dữ, nhưng hội kín này khăng khăng khẳng định trong tiếng Latinh nó có nghĩa là người đem lại ánh sáng - hay Illuminator. Kohler thở dài, giọng ông ta đột ngột trở nên trịnh trọng. - Ông Langdon, xin mời ngồi. Langdon dè dặt ngồi lên chiếc ghế lạnh giá. Kohler lăn chiếc xe tới gần hơn. Tôi không chắc tôi hiểu những gì ông vừa nói, nhưng tôi biết rõ điều này. Leonardo Vetra là một trongnhững tài sản quý giá nhất của CERN. Ông ta còn là một người bạn. Ông hãy giúp tôi tìm Illuminati. Langdon không biết phải trảlời ra sao. "Tìm Illuminati?" Ông ta đùa đấy à? - Thưa ông, tôi e rằng điều đó hoàn toàn không thể được. Kohler nhíu mày.
([
THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ Tác giả: Dan Brown Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình
chương 11-phần 2
- Ý ông là gì? Ông không… - Ông Kohler, - Langdon hướng người về phía chủ nhà, không biết giải thích thế nào cho ông ta hiểu những gì anh sắp nói -Tôi vẫn chưa nói xong câu chuyện. Mặc dù dấu nung này xuất hiện ở đây nhưng không thể chắc rằng đây là hành dộng của hội Illuminati. Không còn bằng chứng nào về sự tồn tại của hội này trong hơn nửa thế kỷ qua, đại đa số các học giả đều cho rằng hội Illuminati đã bị diệt vong từ nhiều năm nay rồi. Những lời nói ấy rơi vào im lặng. Kohler nhìn đâu đó trong màn sương mù trước mắt với vẻ thảng thốt pha lẫn tức giận. - Làm thế quái nào mà ông dám nói với tôi nhóm người này đã biến mất trong khi tên của họ được khắc lên người Vetra! Langdon đã tự hỏi mình câu hỏi đó cả buổi sáng nay rồi.Sự xuất hiện của biểu tượng hai chiều đối xứng Illuminati thật kỳ lạ. Các nhà biểu tượng học trên khắp thế giới hẳn phải sững sờ kinh ngạc. Nhưng kiến thức học thuật của Langdon mách bảo anh rằng sự xuất hiện trở lại của dấu nung này không hề liên quan đến Illuminati. - Biểu tượng này, - Langdon nói, - không hề khẳng định sự hiện diện củangười tạo ra nó. - Điều đó có nghĩa gì? - Nó có nghĩa là một khi những tổ chức như Illuminatikhông còn tồn tại, biểu tượng của nó có thể bị… nhóm khác sử dụng. Đó là hiện tượng chuyển giao. Trong ngành biểu tượng học, chuyện này cực kỳ phổbiến. Phát-xít Đức lấy hình chữ thập ngoặc của người Hindu, người Thiên Chúa giáo lấy biểu tượng thập giácủa Ai Cập, người… - Sáng nay, - Kohler nói giọng thách thức, - khi tôi gõ chữ "Illuminati" trong máytính, nó cho ra hàng ngàn trang web tham khảo. Rõ ràng có rất nhiều người nghĩ rằng nhóm này vẫn còn hoạt động. - Đúng là những câu chuyệngiật gân, - Langdon đáp. Anh thấy khó chịu với sự tràn ngập của các biện phápcâu khác trong nền văn hoáđại chúng hiện đại. Các phương tiện truyền thông tranh nhau đưa những tiêu đề vè ngày tận thế, tự cho mình là những "chuyên gia văn hoá" tìm cách kiếm chácbằng cách thổi phồng trước công chúng những câu chuyện thêu dệt rằng Illuminati còn tồn tại và đangchuẩn bị tổ chức lại trật tự thế giới mới. Gần đây, Thời báo New York còn đưa tin hội Tam Điểm kỳ quái có mốiliên hệ với vô số nhân vật nổi tiếng - Sir Arthur ConanDoyle, Quận công xứ Kent, Peter Sellers, Irving Berlin, Hoang tử Phillip, Louis Armstrong cũng như lăng tẩm của những trùm tư bản nổi tiếng trong các lĩnh vựcngân hàng và công nghiệp hiện đại. Kohler giận dữ chỉ vào xác Vetra: - Nếu nhìn vào bằng chứng này, tôi thấy những câu chuyện giật gân câu khách đó là đúng. - Tôi hiểu nó xuất hiện thế nào, - Langdon nói với cungcách của một nhà ngoại giao.- Nhưng cũng còn có một giả thuyết khả thi hơn rằng các tổ chức khác đang kiểm soát dấu nung của Illuminati và sử dụng cho mục đích riêng của họ. - Mục đích nào? Vụ giết người này chứng minh được điều gì? Câu hỏi hay lắm, Langdon nghĩ. Anh không thể tưởng tượng ra ai đó lại có thể lôi ra dấu nung Illuminati sau 400 năm cất giữ. - Tất cả những gì tôi có thểnói với ông lúc này là nếu Illuminati còn hoạt động cho đến ngày nay, điều này tôi chắc chắn là không thể, thì hội này cũng không liên quan đến cái chết của Leonardo Vetra. - Không ư? - Không. Người ta cho rằng Illuminati có ý muốn xoá bỏ Thiên Chúa giáo, nhưng họ thường sử dụng sức mạnh chính trị và tài chính, khôngphải bằng biện pháp khủng bố. Hơn nữa, Illuminati có một quy định đạo đức ngặt nghèo về những người mà họ xem là kẻ thù. Thành viên của hội này thường là những người làm khoa học ở đẳng cấp cao nhất. Chẳngcó lí gì mà họ lại sát hại một nhà khoa học, đống nghiệp của họ, như Leonardo Vetra. Ánh mắt Kohler vô cùng lạnhlẽo. - Có lẽ tôi chưa đề cập đến một chuyện, Leonardo Vetrakhông phải là một nhà nghiên cứu khoa học thuần tuý. Langdon cố giữ kiên nhẫn. - Ông Kohler, tôi chắc Leonardo Vetra xuất sắc trong nhiều lĩnh vực nhưngsự thật vẫn là… Kohler đột ngột quay xe đi ra khỏi phòng khách, để lại một khoảng sương mù phảng phất khi ông ta biến mất vào lối sảnh. Vì lòng kính Chúa! Langdon rên rỉ. Anh bước theo. Kohler đang đợi anh ở một góc tường nhỏ phía cuối sảnh. - Đây là phòng nghiên cứu của Leonardo, - Kohler nói và chỉ tay vào cánh cửa kéo. - Có lẽ anh nên xem đi thì sẽ hiểu mọi chuyện khác thôi. - Vẻ khó xử, Kohler đẩy cửa mở ra. Langdon nhìn một lượt căn phòng làm việc và ngay lập tức nổi da gà. Đức Mẹ của Chúa Giê-su, anh tự nhủ.
THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ Tác giả: Dan Brown Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình
chương 12
Ở một đất nước khác, một người lính gác trẻ đang ngồikiên nhẫn trước hàng loạt màn hình video giám sát. Anh quan sát những hình ảnh lập lòe trước mắt - hìnhảnh trực tiếp được truyền về từ hàng trăm chiếc camera không dây theo dõi trong cả khu tổ hợp rộng lớn. Những hình ảnh xuất hiện tưởng chừng vô tận. Một đại sảnh trang trí đẹp mắt. Một phòng làm việc riêng. Một bếp ăn rộng. Vừa nhìn những hình ảnh trước mắt, người lính vừa cố cưỡng lại cơn buồn ngủ. Cũng gần hết phiên gác rồi,nhưng vẫn cần phải hết sức cẩn thận. Được phụng sự nơi đây là một vinh hạnh.Một ngày nào đó, anh sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng. Khi những dòng suy nghĩ ấy lướt qua trong tâm trí người lính, một hình ảnh phát tín hiệu báo động. Giật mình, anh đưa tay ấn nút trên bảng điều khiển. Màn hình trước mặt đứng lại. Đầu ù đi anh nhoài người về phía màn hình để nhìn cho rõ. Thông số trên màn hình chobiết hình ảnh này đang được truyền đi từ camera số 86 - chuyên giám sát mộtsảnh ra vào. Nhưng hình ảnh trước mắt chắc chắn không phải sảnh ra vào.
THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ Tác giả: Dan Brown Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình
chương 13-phần 1
Đứng trước phòng làm việc, Langdon ngơ ngác: - Đây là nói nào? - Dù có luồng không khí ấm thổi vào mặt, anh vẫn run rẩy khi bước qua cửa. Kohler không nói gì, chỉ đi theo Langdon vào trong. Langdon đảo mắt nhìn khắp phòng, hoàn toàn không hiểu gì. Căn phòng chứa đầynhững bảo vật kỳ lạ nhất mà anh từng chứng kiến. Ở phía góc tường chiếm hầu hết không gian trang trí là một cây thánh giá bằng gỗ lớn mà Langdon nghĩ phải từ thế kỷ XIV ở Tây Ban Nha. Phía trên cây thánh giá, một mô hình các hành tinh chuyển động quay quanh quỹ đạo bằng kim loạiđang treo lơ lửng sát trần nhà. Bên trái là một bức tranh sơn dầu Đức Mẹ đồngtrinh Maria, còn bên cạnh đócó gắn bảng các nguyên tố tuần hoàn. Trên giường, hình hai cây thánh giá bằng đồng treo kèm hai bên bức ảnh Albert Anhxtanh cùng với câu trích nổi tiếng của nhà bác học lừng danh này: CHÚA KHÔNG ĐÁNH CƯỢC VỚI VŨ TRỤ. Langdon bước vào bên trong, kinh ngạc nhìn quanh.Một cuốn Kinh thánh bìa bọc da được đặt trên bàn của Vetra, bên cạnh mô hình nguyên tử của Bohr và một phiên bản thu nhỏ bức tượng thần Moses của Michelangelo. Tư tưởng khoáng đạt, Langdon thầm nghĩ. Ở đây dù rất ấm, nhưng không hiểu sao lối bài trí này khiến anh thấy ớn lạnh khắp người. Anh cảm giác mình đang được chứng kiến sự ra chạm của hai triết lý khống lồ… của những lực lượng đối lập. Anh nhìn tiêu đề trên giá sách: Hạt nhân của Chúa Lí thuyết của Đạo trong Vật lí. Bằng chứng của Chúa trời Một trong những giá kê sách có khắc câu nói: KHOA HỌC THỰC SỰ KHÁM PHÁ CHÚA TRỜI CÂU TRẢ LỜI NẰM SAU MỖI CÁNH CỬA GIÁO HOÀNG PIUS XII - Leonardo là một linh mục Cơ đốc giáo, - Kohler nói. Langdon quay lại. - Một linh mục? Tôi tưởng ông nói ông ấy là nhà vật lí? - Là cả hai. Người của cả khoa học và tôn giáo không phải không có tiền lệ trong lịch sử. Leonardo là một trong số họ. Ông ấy quan niệm vật lí như "quy luật tự nhiên của Chúa", rằng kinh thánh có thể nhìn thấy ở những quy luật thiên nhiên xung quanh chúng ta. Thôngqua khoa học, ông ấy muốn chứng minh sự hiện diện củaChúa trong hàng loạt nhữngnghi ngờ của con người. Leonardo coi mình là một nhàvật lí lí thuyết! Nhà vật lí lí thuyết? Langdon thấy chuyện này không có gì mâu thuẫn cả. - Lĩnh vực vật lí hạt, - Kohler nói, - gần đây có rấtnhiều phát minh gây chấn động - những phát hiện có liên quan đến tôn giáo. Leonardo đã khám phá ra rất nhiều trong số đó. Langdon quan sát ông giám đốc của CERN, cố gắng hiểunhững điều kỳ lạ đó. "Tôn giáo và vật lí?" - Langdon từng dành nhiều năm nghiên cứu lịch sử tôn giáo, nhưng cứ theo chu kỳ tuần hoàn, từ thuở xa xưa,tôn giáo và khoa học vẫn luôn như nước với lửa… hai kẻ thù không đội trời chung… không thể nào hoà hợp. - Vetra đang tiến gần đến nghiên cứu vật lí hạt, - Kohler nói -Ông ấy muốn hợp nhất khoa học và tôn giáo… muốn chứng minh rằng chúng bổ trợ cho nhautheo một cách không ai ngờ tới. Ông ấy gọi lĩnh vực này là Vật lí mới - Kohler lôitừ giá sách ra một cuốn và đưa cho Langdon. Langdon nhìn bìa ngoài cuốnsách. Chúa trời, Phép màu và Vật lí mới - tác giả Leonardo Vetra. Đây chỉ là một lĩnh vực nhỏ, - Kohler nói tiếp, - Chúng nó mang lại câu trả lời mới cho một số vấn đề cũ - câu hỏi về nguồn gốc vũ trụ và lực liên kết giữa chúng ta. Leonardo tin rằng nghiên cứu của ông ấy sẽ giáo hoá cho hàng triệu người. Năm ngoái, ông ấy đã khẳng định một cách chắcchắn về sự tồn tại của một trường năng lượng thống nhất tất cả mọi người chúngta. Ông ấy còn chứng minh rằng chúng ta đều có mối liên hệ vật lí… rằng các phân tử trong cơ thể anh luôn thu hút các phân tử trong cơ thể tôi… rằng có một đơn lực nào đó chuyển động xung quanh tất cả chúng ta. Langdon thấy rối trí. Và sứcmạnh của Chúa thống chúng ta. Ông Vetra thực sự đã tìmra cách chứng minh các hạt có liên kết với nhau? - Kết luận rõ ràng. Một bài báo gần đây trên tờ Khoa học Mỹ đã ca ngợi Vật lí mớinhư một con đường chắc chắn tiến tới Chúa trời chứ không phải tôn giáo. Lời bình luận thuyết phục. Langdon đột nhiên nghĩ đếnhội kín bài tôn giáo Illuminati.Anh miễn cưỡng nghĩ đến việc hớt tay trên của một thành tựu tri thức. Nếu thựcsự hội Illuminati còn sống, liệu họ có giết Leonardo chỉ vì sợ ông đưa thông diệp về tôn giáo này tới dân chúng? Rồi anh gạt bỏ ngay suy nghĩ đó. Thật ngớ ngẩn! Illuminati chỉ là lịch sửxa xưa! Học giả nào mà chẳng biết điều đó! - Vetra có vô khối kẻ thù trong giới khoa học, - Kohler nói tiếp -Nhiều nhà khoa học thuần tuý ghen ghét ông ta, kể cả ngay tại CERN này. Họ cho rằng sử dụng Vật lí phân tích để hậuthuẫn cho các nguyên lí tôn giáo là phản bội lại khoa học.
THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ Tác giả: Dan Brown Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình
chương 13-phần 2
- Nhưng chẳng phải các nhàkhoa học ngày nay ít bảo thủ hon nhà thờ sao? Kohler càu nhàu vẻ ghê tởm: - Tại sao chúng ta lại phải như vậy? Nhà thờ không còn thiêu sống các nhà khoahọc nữa rồi, nhưng nếu ôngnghĩ họ không còn thống trị khoa học, cứ tự hỏi mình xem tại sao một nữa số trường học ở đất nước các ông không cho phép dạy vềthuyết tiến hoá. Hãy tự hỏi mình tại sao Nghiệp đoàn Công giáo lại có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất lên những tiến bộ khoa học trên thế giới. Trận chiến giữa khoa học và tôn giáo vẫn còn đang dữ dội lắm, ông Langdon ạ. Nó chuyển từ chiến trường sang giảng đường, nhưng vẫn còn rất quyết liệt. Langdon phải công nhận Kohler nói đúng. Chỉ cách đây có một tuần, khoa Thầnhọc của trường đại học Harvard còn diễu binh qua toà nhà của khoa Sinh vật, phản đối môn kỹ thuật gen được đưa vào chương trình đại học. - trưởng khoa Sinh vật, Richard Aaronian, một người nổi tiếng chuyên nghiên cứu về các loài chim,đã bảo vệ chương trình giảng dạy bằng cách treo một tấm băng rôn to tướng trên cửa sổ văn phòng ông ta. Tấm băng rôn vẽ hình một con cá Thiên Chúa giáo bị sửa thành cá bốn chân - mà theo Aaronian, là sự mô tả tiến hoá của những con cá thở bằng phối ở châu Phikhi di chuyển lên mặt đất. Phía dưới con cá, thay vì chữ "Giê-su" người ta đề chữ "DARWIN". Một tiếng bíp sắc gọn vang lên và Langdon ngước mắt nhìn. Kohler đưa tay với xuống hệ thống điện tử cài bên xe lăn. Ông ta lôi chiếc máy nhắn tin ra và đọc dòng chữtrên đó. - Tốt lắm. Con gái của Leonardo Vetra. Cô Vetra sắp đến bãi đỗ trực thăng ngay bây giờ. Chúng ta sẽ gặp cô gái này ở đó. Tôi nghĩ tốt hơn hết không nênđể cô ấy đến dây và nhìn thấy cha mình trong tình cảnh này. Langdon đồng ý. Đây sẽ là một cú sốc mà không một người con nào muốn chứng kiến. - Tôi sẽ đề nghị cô Vetra giải thích về dự án mà hai cha con họ đang tiến hành… có lẽ sẽ hé lộ ra vài manh mối tại sao ông ấy bị giết hại. - Ông nghĩ rằng công trình nghiên cứu của Vetra khiến ông ấy bị giết à? - Có thể lắm chứ. Leonardo nói với tôi ông ấy đang tìm ra một thứ gây chấn động. Đó là tất cả những gì ông ấy nói. Ông ấy giữ bí mật dự án. Vetra có phòng thí nghiệm riêng và yêu cầu được bảo mật, tôi dành cho ông ấy những quyền đó vì ông ấy là một nhà bác học thực sự lỗi lạc. Gần đây, công trình này tiêu tốn rất nhiều năng lượng điện nhưng tôi chưa muốn hỏi lý do. - Kohler quay về phía cửa phòng làm việc. -Tuy nhiên, còn một việc tôi muốnông biết trước khi rời khỏi đây. Langdon không chắc mình còn muốn nghe thêm nữa hay không. - Kẻ giết người đã lấy đi một thứ của Vetra. - Một thứ? - Đi theo tôi. Vị giám đốc chuyển bánh xelăn vào phòng khách đang mù mịt sương khói. Langdon đi theo, không hiểu còn chuyện gì nữa. Kohler tiến gần đến xác củaVetra và dừng lại. Ông ta rahiệu Langdon cùng đến. Langdon miễn cưỡng di đến gần hơn, cổ họng muốn nônmửa vì mùi nước tiểu đông cứng của nạn nhân. - Nhìn vào mặt ông ta đi! - Kohler nói. Nhìn vào mặt ông ta? Langdon nghĩ thầm. Tôi tưởng ông bảo chúng đánh cắp một vật gì cơ mà. Langdon e ngại quỳ gối. Anhcố gắng nhìn khuôn mặt Vetra nhưng cái đầu đã bị vặn ngược 180 độ ra sau, mặt cắm xuống thảm. Vất vả với thân hình què quặt, Kohler cúi xuống cẩn thận lật cái đầu đông cứng của Vetra lên. Khuôn mặt xác chết quay lại nghe kêu răng rắc, méo mó đau đớn. Kohler giữ nó trên tay một lát. - Lạy Chúa tôi! - Langdon kêu lên sợ hãi, lập cập suýt ngã. Mặt Vetra đầy máu. Mộtcon mắt màu lam nhạt vô hồn đang nhìn anh chằm chặp. Hốc mắt bên kia bị xé rách và trống trơn. - Chúngđã lấy đi con mắt của ông ấy sao?
THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ Tác giả: Dan Brown Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình
chương 14-phần 1
Langdon bước khỏi toà nhà C, ra ngoài trời, vui mừng vìđược thoát khỏi căn hộ của Vetra. ánh nắng mặt trời giúp anh gạt bỏ hình ảnh hốc mắt trống hoác khỏi tâmtrí. - Lối này, ông Langdon. - Kohler nói rồi quay lên một con dốc. Chiếc xe lăn nhẹ nhàng tăng tốc. - Cô Vetra sẽ về bất cứ lúc nào. Langdon vội vã leo theo. - Vậy thì, - Kohler hỏi. - Ông còn nghi ngờ về sự dính líu của Illuminati nữa không? Langdon không biết phải nóithế nào. Các mối quan hệ tôn giáo của Vetra nhất định có vấn đề, nhưng Langdon cũng không thể từ bỏ những chứng cứ khoa học mà anh đã nghiên cứu. Bên cạnh đó, con mắt… - Tôi vẫn cho rằng, - Langdon nói, giọng mạnh mẽ bất ngờ - Illuminati không thể chịu trách nhiệm trong chuyện này. Con mắt bị mất là một bằng chứng. - Gì cơ? - Lấy đi một bộ phận, - anh giải thích, - thật… không giống cung cách của Illuminati chút nào. Các nhà nghiên cứu nghi lễ tôn giáo đều cho rằng cách cắt rời một bộ phận làm biến dạng khuôn mặt là của những kẻ cực đoan non nớt "những kẻ cuồng tín tuỳ tiện hành động khủng bố", còn hội Illuminati vốn thận trọng hơn nhiều. - Thận trọng ư? Phẫu thuậtcắt bỏ nhãn cầu của ai đó mà là thận trọng? - Hành động đó chẳng chuyển tải thông điệp gì cả, không phục vụ cho một mục đích cao cả nào hết. Chiếc xe lăn của Kohler đột ngột dừng trên đỉnh đồi. Ông ta quay lại. - Ông Langdon, tin tôi đi, con mắt bị mất tích đó thực sự được dùng cho một mục đích quan trọng hơn… quan trọng hơn rất nhiều. Khi hai người đàn ông vượt qua bãi cỏ cao ngút, họ nghe thấy tiếng đập phành phạch của cánh quạt chiếc máy bay từ phía tây vọng lại. Một chiếc trực thăng xuất hiện, vòng quanh thung lũng rồi tiến về phía họ. Nó nghiêng mạnh, rồi từ từ lượn trên bãi đỗ được sơn vạch trên cỏ. Langdon đứng tách ra ngắm nhìn, đầu óc anh quay cuồng y hệt như những cánh quạt máy bay, không hiểu liệu một đêm ngủ đẫy giấc có thể làm mớ suy nghĩ hỗn độn trong đầu anh sáng sủa hơn chút nào không. Dù sao thì một giấc ngủ lúc này cũng thật xa vời. Khi máy bay hạ cánh, một viên phi công nhẩy xuống, bắt đầu dỡ các dụng cụ - những bộ đồ nghề, những túi nhựa dẻo còn ướt, bộ đồlặn, và vô số thứ trông nhưnhững thiết bị công nghệ cao. Langdon bối rối. - Đấy là đồ nghề của cô Vetra à? - Anh gào lên át tiếng động cơ máy bay. Kohler gật đầu và gào lại. - Cô ta đang tiến hành nghiên cứu sinh học trên biển Balearic(1). - Tôi tưởng cô ấy là nhà vật lí cơ mà! - Đúng đấy. Cô ấy là nhà vật lí sinh học, nghiên cứu mối liên hệ trong hệ sinh thái. Công việc của cô ấy liên quan chặt chẽ với công trình nghiên cứu vật lí hạt của Vetra. Gần đây, cô ấy đang phủ nhận một trong những học thuyết cơ bản của Anhxtanh bằng cách ghi lại sự phối hợp từ khi quan sát một đàn cá ngừ. Langdon nhìn kỹ xem trên khuôn mặt chủ nhà có pha chút hài hước nào không. Anhxtanh và đàn cá ngừ? Anh bắt đầu băn khoăn liệu có phải chiếc X-33 đã thả nhầm anh lên một hành tinh khác không? Một lúc sau, Vittoria Vetra mới ra khỏi máy bay. Robert Langdon phải thừa nhận rằng hôm nay là một ngày của hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Vittoria Vetra bước xuống máy bay,mặc chiếc quần soóc vải ka ki và áo không tay màu trắng, không hề giống một nhà khoa học chỉ biết tối ngày chúi mũi vào sách vở như anh vẫn tưởng. Cô gái này cao ráo, làn da màu hạt dẻ, mái tóc đen dài bị luồng gió mạnh từ cánh quạt động cơ phả ra thổi tung lên, thậtmềm mại và duyên dáng. Khuôn mặt của Vittoria mangnét đặc trưng Italia - không quá đẹp nhưng đầy đặn, một vẻ đẹp đầy trần tục, đến nỗi dù cách cô gần 20 mét, Langdon vẫn thấy xao xuyến. Luồng gió mạnh từ cánh quạt máy bay khiến cho bộ quần áo ép sát vào thân hình thon thả và bộ ngực nhỏ của cô gái trẻ. Cô Vetra là một phụ nữ có sức mạnh phi thường, - Kohler nói, dường như dọc được thái độ đắm đuối của Langdon. - Cô ấy đã từng làm việc ở những khu vực sinh thái nguy hiểm suốt hàng tháng trời. Một người ăn kiêng nghiêm ngặt và chuyên gia Hatha Yoga(2) trong khu tập thể của CERN.Hatha Yoga? Langdon cười thầm. Nghệ thuật thiền định cổ xưa của đạo Phật khó cóthể phù hợp với con gái củamột linh mục Cơ đốc giáo. Langdon ngắm Vittoria khi côtiến lại gần anh. Cô gái chắcđã khóc rất nhiều, và đôi mắt nâu lúc này tràn ngập những cảm xúc mà Langdon chưa thể gọi tên. Tuy nhiên,dáng điệu của Vittoria vẫn tỏ ra mạnh mẽ và kiên quyết. Làn da rám nắng của vùng Địa Trung Hải ánh lên trên đôi chân mạnh mẽ và săn chắc. - Vittoria, - Kohler nói khi cô đến gần họ. - Tôi thành thật chia buồn. Đây là một tổn thất cực kỳ to lớn đối với khoa học… đối với tất cả chúng ta ở CERN. Vittoria gật đầu vẻ biết ơn. Cô gái cất tiếng nói với một chất giọng thật du dương mượt mà: - Đã tìm được hung thủ chưa? - Chúng tôi đang nỗ lực tìm kiếm. Cô gái quay sang Langdon, chìa cánh tay mánh mai về phía anh. Tên tôi là Vittoria Vetra. Ông là người của Interpol, đúng không?
THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ Tác giả: Dan Brown Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình
chương 14-phần 2
Langdon bắt tay cô gái, và ngay lập lức anh bị ánh mắt sâu thẳm nỗi buồn ấy hút mất hồn. - Robert Langdon. - Anh không biết nên nói thêm gì nữa. - Ông Langdon không phải là nhà chức trách, - Kohler giải thích. -Ông ấy là một chuyên gia đến từ nước Mỹ.Ông Langdon sẽ giúp chúng ta tìm ra kẻ đã gây ra chuyện này. Vittoria có vẻ hoài nghi. - Thế còn cảnh sát? Kohler chỉ thở dài, không nói gì. - Thi thể của cha tôi giờ ở đâu? - cô hỏi. - Đang được chăm sóc cẩn thận. Langdon ngạc nhiên trước lời nói dối trắng trợn này. - Tôi muốn được ở bên ông ấy. - Vittoria nói. - Vittoria, - Kohler vội vã. -Cha cô đã bị sát hại một cách dã man. Tốt hơn hết làcô hãy nhớ về ông ấy với những hình ảnh ngày xưa. Vittoria định nói gì đấy nhưng bị ngắt lời. - Xin chào, Vittoria! - xa xacó vài người gọi - Chào mừng trở về nhà! Cô quay lại. Một nhóm các nhà khoa học đang đi đến gần bãi trực thăng. Họ vui vẻ vẫy chào. - Cô còn phủ nhận thêm thuyết nào của Anhxtanh nữa không? - Một người gọito. Một người khác đế vào: - Cha cô hẳn phải tự hào lắm! Vittoria vụng về vẫy chào lại khi họ đi ngang qua. Rồi cô quay sang Kohler, mặt đầy vẻ khó hiểu. - Không ai biết chuyện này sao. - Tôi cho rằng sự thận trọng là thứ quan trọng nhất. - Ông vẫn chưa nói với các nhân viên khác là cha tôi bị giết hại? - Vẻ phẫn nộ bắt đầu lộ rõ trong âm giọng trầm trầm của cô gái trẻ. Trong phút chốc Kohler trở nên cứng rắn. - Có lẽ cô quên mất một điều, cô Vetra ạ, một khi tôi báo cáo về cái chết của chacô, người ta sẽ tiến hành điều tra ở CERN. Toàn bộ phòng thí nghiệm của ông ấy sẽ bị khám xét. Tôi tôn trọng thế giới riêng của cha cô. Có hai việc cha cô từng nói với tôi về dự án đang thực hiện. Việc thứ nhất, dựán này sẽ đem đến cho CERN tiền triệu từ các loại hợp đồng trong thập kỷ tới. Và thứ hai, nó không nên được tiết lộ trước công chúng bởi vì đây vẫn là mộtcông nghệ nguy hiểm. Sau khi suy nghĩ về hai điều này, tôi thấy tốt hơn hết là không nên để người lạ nhòmngó phòng thí nghiệm của ông ấy cũng như ăn cắp công nghệ hoặc tự hại mình rồi đổ hết lên đầu CERN. Tôi diễn đạt như thế đã rõ chưa? Vittoria nhìn lại, không thốt lên được lời nào. Rõ ràng là cô buộc phải tôn trọng và chấp nhận những lập luận hết sức lôgíc của Kohler. - Trước khi chúng ta báo cho nhà chức trách, - Kohlernói, - Tôi cần biết hai cha con cô đã làm gì. Tôi muốn cô đưa chúng tôi tới phòng thí nghiệm. - Chẳng có gì liên quan ở phòng thí nghiệm,, Vittoria nói.- Không ai biết cha con tôi đang làm gì. Thí nghiệm này không thể dính dáng tớicái chết của cha tôi. Kohler thở dài não nề. - Nhưng bằng chứng lại cho thấy điều ngược lại. - Bằng chứng? Bằng chứng nào? Langdon cũng thấy băn khoăn về điểm này. Kohler đưa tay lên xoa miệng: - Rồi cô sẽ tin tôi ngay thôi. Ánh mắt đầy phẫn nộ của Vittoria cho thấy cô gái trẻ không hề tin những lời vừa nghe thấy. Chú thích: (1) Biển Balearic: Vùng biền nằm trong khu vực Địa Trung Hải, gần Tây Ban Nha, Pháp. (2) Hatha Yoga: Nền tảng của các môn Yoga, ha (mặt trời) và tha (mặt trăng) là sự cân bằng khi thiền định, thư giãn và nghỉ ngơi.
THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ Tác giả: Dan Brown Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình
chương 15-phần 1
Langdon lặng lẽ sải bước theo sau Vittoria và Kohler khi cả ba quay trở lại nơi màanh vừa phải chứng kiến cảnh tượng kinh khủng ấy. Bước chân Vittoria nhịp nhàng uyển chuyển - hệt như một vận động viên lặn đẳng cấp Olympic - dáng vẻdẻo dai, theo như Langdon phỏng đoán, là biểu hiện của sự linh hoạt và hài hoà mà Yoga mang lại. Anh nhận thấy cô gái đang thở rất đều đặn và chậm rãi, như thể đang cố gắng kiềm chế nỗi đau. Langdon muốn nói với cô gáimột điều gì đó, những lời cảm thông, rằng anh cũng đã từng trải qua cảm giác trống vắng đến không chịu đựng nổi khi bất ngờ mất đingười cha yêu dấu. Anh nhớnhất là ngày tang lễ. Đó là một ngày mưa sụt sùi, bầu trời u ám chỉ cách hai ngày sau sinh nhật lần thứ 12 của anh. Những đồng nghiệp của cha, tất cả đều vận quần áo màu xám, kéo đến chật nhà. Tất cả bọn họđều nắm chặt tay anh và nhắc đi nhắc lại những từ như bệnh tim và stress. Nước mắt giàn giụa, mẹ anh đùa rằng chỉ cần cầm tay cha là bà đã cầm chắc phần thắng ở thị trường chứng khoán, vì mạch đập của ông chính là chiếc đồng hồ vạn năng đối với bà… Một lần, khi cha còn sống, Langdon nghe thấy mẹ van nài cha "Hãy nghỉ ngơi một chút để thưởng thức vẻ đẹpcủa hoa hồng". Năm đó, Langdon mua tặng cha một bông hồng ép trongbình thuỷ tinh nhân dịp Giáng sinh. Đó là bông hoa đẹp nhất mà anh từng trôngthấy… những tia nắng mặt trời chiếu rọi vào chiếc bìnhđều hoá thành những dải sáng màu cầu vồng rực rỡ, chiếu rọi lên bức tường gầnđó. - Đẹp lắm! - cha nói khi mở gói giấy ra rồi hôn lên trán Langdon. - Cha con ta hãy tìm cho chiếc bình này một vị trí thích hợp nào! Rồi ông cẩn thận cất chiếc bình trên một cái giá đầy bụi, trong góc tối nhất ở phòng khách. Vài ngày sau, Langdon bắc ghế đẩu để lấy chiếc bình xuống, đem trả lại cửa hàng. Cha anh không bao giờ biết rằng bông hoa đã biến mất. Tiếng chuông thang máy kéo Langdon quay trở về thực tại. Cả Vittoria và Kohler đều đang đứng trướcmặt anh, chuẩn bị bấm nút. Langdon vẫn đang ngập ngừng bên ngoài cánh cửa. - Sao thế? - Kohler hỏi, vớivẻ sốt ruột hơn là quan tâm. - Không có gì, - Langdon trảlời, nặng nề bước vào thang máy chật hẹp. Anh chỉsử dụng thang máy khi nào thực sự cần thiết, dù sao thì cầu thang bình thường vẫn thoáng đãng hơn nhiều. - Phòng thí nghiệm của tiến sĩ Vetra nằm dưới tầng hầm. - Kohler nói. Tuyệt vời, Langdon thầm nghĩ khi anh cảm nhận được luồng gió mát lạnh thổilên từ sâu dưới hầm. Cánh cửa đóng lại và thang máy bắt đầu đi xuống. - Sáu tầng nhà, - Giọng nói của Kohler nghe lạnh lẽo như được phát ra từ một cỗ máy. Langdon hình dung ra bóng tối phủ đầy căn hầm trống phía dưới. Anh cố xua đuổi ý nghĩ ấy đi bằng cách nhìnchăm chăm vào bảng chỉ dẫn trên thang máy. Kỳ lạ thật, thang máy này chỉ hiển thị hai chặng đến là TẦNG HẦM VÀ LHC. - LHC nghĩa là gì? - Langdon hỏi, cố không để cho giọng nói trở nên run rẩy. - Máy gia tốc hạt Hadron, - Kohler nói - Một loại máy giatốc hạt. Máy gia tốc hạt? Langdon rất mơ hồ về khái niệm này.Lần đầu tiên anh nghe đến nó khi đang ăn tối với mấy ông bạn đồng nghiệp ở Dunster House thuộc Cambridge. Một người bạn, nhà vật lí Bob Brownell,, đã đến muộn, vẻ mặt đầy tức giận. - Lũ khốn đó bác bỏ rồi! - Brownell lầm bầm chửi rủa. - Bác bỏ cái gì? - tất cả đồng thanh hỏi. - Là cái gì? - Máy va đập siêu dẫn lớn! Ai đó nhún vai. - Tôi không hề biết là Harward đang tiến hành lắp đặt một cỗ máy như thế. - Không phải của Harvard! -Anh ta kêu lên. - Của nước Mỹ! Nó sẽ là máy gia tốc hạtmạnh nhất trên thế giới! Mộttrong những dự án khoa học quan trọng nhất thế kỷ!Chi phí lên tới 2 tỷ đô la, vàThượng nghị viện vừa bác bỏ. Những kẻ vận động hành lang Công giáo bảo thủđáng nguyền rủa! Khi Brownell bình tĩnh trở lại, anh ta giải thích rằng máy gia tốc hạt là một ống hình trụ cực lớn, trong đó các hạt nhỏ hơn nguyên tử được gia tăng tốc độ. Từ trường bên trong ống sẽ liên tục tắt bật cực nhanh đểquay các hạt cho đến khi chúng đạt đến siêu vận tốc.Các hạt khi quay trong ống sẽ đạt vận tốc tối đa trên 288.000 km/s. - Như thế là gần bằng tốc độ ánh sáng rồi còn gì, - một trong những giáo sư có mặt ở đó lên tiếng. - Thì đúng là thế mà lại, - Brownell nói. Anh ta tiếp tục giải thích thêm rằng nếu tăng tốc hai hạt từ hai hướng đối lập nhau trong ống và cho chúng va đập vào nhau, các nhà khoa họccó thể xé nhỏ thành phần của chúng ra là có được thành phần cơ bản nhất củatự nhiên. - Máy gia tốc hạt, - Brownell tuyên bốt - Cực kỳquan trọng đối với lương laicủa khoa học. Hiện tượng vachạm giữa các hạt là chìa khoá mở ra cả một kho kiến thức về các công trình trongvũ trụ.